hạn chế của chương trình giáo dục phổ thông mới

Việc thể hiện Chuẩnkiếnthức,kĩ năng ở cuối chương trình cấp học biểu hiện hình mẫu mong đợi về người học sau mỗi cấp học và cần thiết cho công tác quản lí, chỉ đạo, đào tạo, bồi dưỡng giáo viên (GV). 2.3. Chương trình cấp học thể hiện chuẩn kiến thức, kĩ năng không phải đối vớitừng môn học màđốivớitừng lĩnhvực họctập.Trongvănbảnvề chương trình Phát triển chương trình giáo dục nhằm tạo cơ hội cho các trường phổ thông phát huy sức sáng tạo của giáo viên, khắc phục những hạn chế của chương trình, sách giáo khoa, nội dung giáo dục; tạo nên những giá trị và bản sắc đặc thù của mỗi nhà trường. Tuy nhiên, trên thực tế, theo Thạc sĩ Quản lý giáo Ngày đăng: 29/08/2018, 23:31. Câu 1: So sánh chương trình (tổng thể) giáo dục tiểu học hành đổi Kế thừa từ chương trình hành Thứ nhất: Về mục tiêu giáo dục, CT mới vẫn tiếp tục được xây dựng trên quan điểm coi mục tiêu giáo dục phổ thơng là giáo dục con người tồn Có 5 mức độ mức đạt được của năng lực "Giải quyết vấn đề và sáng tạo" khi dạy học nội dung về thuật toán hoặc lập trình. Chương trình giáo dục phổ thông 2018 trình bày về định hướng đánh giá kết quả giáo dục theo một số điểm chính như sau: SINH HOẠT CHUYÊN ĐỀ MÔN TIẾNG VIỆT LỚP 01 CỦA CHƯƠNG TRÌNH GIÁO DỤC PHỔ THÔNG NĂM 2018. Nhằm thảo luận, góp ý cho Chương trình giáo dục phổ thông năm 2018 theo định hướng phát triển phẩm chất và năng lực người học. Sáng ngày 17/04/2021, Cụm chuyên môn số 01 do Trường mimpi rumah roboh milik orang tua togel. Tôi là hiệu trưởng trường THPT tại Hồ Chí Minh, ban biên tập cho tôi hỏi có hướng dẫn nào thực hiện Chương trình giáo dục phổ thông năm 2022 không? Tôi cảm ơn! Nhà trường cần đảm bảo hoạt động giáo dục được triển khai khoa học và không gây áp lực đối với học sinh THPT? Hướng dẫn cha mẹ học sinh chuẩn bị các điều kiện học tập thích ứng với việc nhà trường triển khai thực hiện Đề án GD thông minh, Chuyển đổi số, Dạy Tin học theo chuẩn Quốc tế? Tiếp tục thực hiện đổi mới đánh giá học sinh, nâng cao chất lượng kiểm tra, đánh giá theo hướng chuyển đổi mục tiêu dạy học “tiếp cận kiến thức” sang “tiếp cận hình thành năng lực”? Nhà trường cần đảm bảo hoạt động giáo dục được triển khai khoa học và không gây áp lực đối với học sinh THPT?Căn cứ theo hướng dẫn tại Công văn 2522/SGDĐT-GDTrH năm 2022 của Sở Giáo dục và Đào tạo TP Hồ Chí Minh năm 2022 hướng dẫn triển khai hoạt động giáo dục một cách khoa học, sư phạm và không gây áp lực đối với học sinh THPT như sau"Sở Giáo dục và Đào tạo GDĐT hướng dẫn các đơn vị trong việc tổ chức thực hiện Chương trình giáo dục phổ thông 2018 năm học 2022-2023 như sau 1. Chương trình GDPT 2018 được xây dựng theo hướng mở, trong đó quy định tổng số tiết trong một năm học cho mỗi môn học, hoạt động giáo trường chủ động bố trí thời gian triển khai kế hoạch giáo dục các môn học và hoạt động giáo dục trong năm học bảo đảm tính khoa học, sư phạm, không gây áp lực đối với học sinh. Căn cứ các nội dung đã triển khai tại hội nghị triển khai Chương trình GDPT 2018, các đơn vị xây dựng các phương án phù hợp, tổ chức tư vấn và định hướng cho học sinh lớp 10 chọn môn học lựa chọn và cụm chuyên đề học tập lựa chọn theo qui định và đúng tiến độ. Lưu ý việc xây dựng các phương án và tổ chức triển khai chọn môn học lựa chọn và cụm chuyên đề học tập lựa chọn phải đáp ứng nhu cầu của học sinh, bảo đảm phù hợp với điều kiện về đội ngũ giáo viên, cơ sở vật chất, thiết bị dạy học của nhà trường. Nhà trường công khai các phương án lựa chọn và tăng cường công tác tư vấn hướng nghiệp giúp học sinh lựa chọn môn học và các cụm chuyên đề học tập lựa chọn phải phù hợp với định hướng nghề nghiệp. Trường hợp đặc biệt, học sinh có nguyện vọng chuyển đổi môn học lựa chọn và cụm chuyên đề học tập lựa chọn, hiệu trưởng xem xét quyết định và báo cáo Sở GDĐT. Hiệu trưởng tổ chức xây dựng dự thảo kế hoạch giáo dục nhà trường, hướng dẫn tổ, nhóm thảo luận, thống nhất nội dung kế hoạch giáo dục tổ, nhóm môn học để thực 2 hiện chương trình Chương trình GDPT 2018 ở khối lớp 6, 7, 10 và Chương trình GDPT hiện hành Quyết định 16 ở các khối 8, 9, 11, 12. Căn cứ kế hoạch giáo dục tổ, nhóm môn học giáo viên xây dựng kế hoạch giáo dục cá nhân và kế hoạch bài dạy chuẩn bị cho năm học 2022-2023."Theo đó, nhà trường cần chủ động bố trí thời gian triển khai kế hoạch giáo dục các môn học và hoạt động giáo dục trong năm học bảo đảm tính khoa học, sư phạm, không gây áp lực đối với học dẫn cha mẹ học sinh chuẩn bị các điều kiện học tập thích ứng với việc nhà trường triển khai thực hiện Đề án GD thông minh, Chuyển đổi số, Dạy Tin học theo chuẩn Quốc tế?Căn cứ theo hướng dẫn tại Công văn 2522/SGDĐT-GDTrH năm 2022 của Sở Giáo dục và Đào tạo TP Hồ Chí Minh năm 2022 hướng dẫn về thông tin truyền thông đối với cha mẹ học sinh như sau“2. Thông tin truyền thông để học sinh, cha mẹ học sinh hiểu rõ quy định về chương trình giáo dục trong giai đoạn định hướng nghề nghiệp ở cấp trung học phổ thông. Thông qua cuộc họp cha mẹ học sinh đầu năm, giáo viên chủ nhiệm giải thích, hướng dẫn để phụ huynh hiểu những thuận lợi, khó khăn trong việc thực hiện chương trình GDPT 2018 để cùng phối hợp. Hướng dẫn cha mẹ học sinh chuẩn bị các điều kiện học tập thích ứng với việc nhà trường triển khai thực hiện Đề án GD thông minh, Chuyển đổi số, Dạy Tin học theo chuẩn Quốc tế và nhất là trường học phối hợp việc dạy học trên lớp với việc tổ chức cho học sinh học tập trên Internet qua các hệ thống quản lý học tập LMS.”Theo đó, cần phải thông tin truyền thông để học sinh, cha mẹ học sinh hiểu rõ quy định về chương trình giáo dục trong giai đoạn định hướng nghề nghiệp ở cấp dẫn thực hiện Chương trình giáo dục phổ thông năm 2022 Đảm bảo hoạt động giáo dục không gây áp lực đối với học sinh? Hình từ internetTiếp tục thực hiện đổi mới đánh giá học sinh, nâng cao chất lượng kiểm tra, đánh giá theo hướng chuyển đổi mục tiêu dạy học “tiếp cận kiến thức” sang “tiếp cận hình thành năng lực”? Căn cứ theo hướng dẫn tại Công văn 2522/SGDĐT-GDTrH năm 2022 của Sở Giáo dục và Đào tạo TP Hồ Chí Minh năm 2022 hướng dẫn tăng cường công tác kiểm tra nội bộ nhà trường như sau- Tăng cường công tác kiểm tra nội bộ nhà trường trong việc triển khai thực hiện nhiệm vụ chuyên môn và kịp thời khắc phục những tồn tại, hạn chế trong quá trình triển khai thực hiện chương trình GDPT 2018; đổi mới công tác quản lý; giảm hồ sơ, sổ sách; tăng cường ứng dụng công nghệ thông tin và tạo môi trường làm việc sáng tạo cho giáo tục thực hiện đổi mới đánh giá học sinh, nâng cao chất lượng kiểm tra, đánh giá theo hướng chuyển đổi mục tiêu dạy học “tiếp cận kiến thức” sang “tiếp cận hình thành năng lực” phù hợp với kế hoạch giáo dục từng môn học theo Thông tư 22/2021/TT-BGDĐT ngày 20/7/ trọng đổi mới phương pháp, kỹ thuật, hình thức tổ chức, không gian tổ chức các hoạt động dạy học, sử dụng linh hoạt các thiết bị dạy học, vận dụng kết dạy học trực tiếp và dạy học qua internet để mở rộng thời gian, không gian tổ chức học tập cho học sinh, giúp học sinh có kế hoạch học tập cá nhân chủ động và hứng thú hơn học cứ Quyết định 2360/QĐ-UBND ngày 12/7/2022 của Ủy ban nhân dân Thành phố về phê duyệt danh mục SGK và kết quả đề xuất lựa chọn SGK của nhà trường đã thực hiện, các đơn vị thông báo danh mục SGK sử dụng trong năm học hiện mua sắm đầy đủ SGK theo danh mục phê duyệt của BGD cho thư viện. Thống kê số lượng SGK cần thiết theo nhu cầu của học sinh để phối hợp với tất cả các NXB đảm bảo có đầy đủ và kịp thời SGK cho năm học vậy, nhà trường cần phải chủ động bố trí thời gian triển khai kế hoạch giáo dục các môn học và hoạt động giáo dục trong năm học bảo đảm tính khoa học, sư phạm, không gây áp lực đối với học sinh THPT. THEO Bộ GD và ĐT, chương trình tổng thể đã kế thừa và phát huy những ưu điểm của chương trình giáo dục phổ thông hiện hành, đồng thời tham khảo, tiếp thu có chọn lọc kinh nghiệm của các nước có nền giáo dục phát triển. Chương trình tổng thể được xây dựng theo hướng chuyển từ chú trọng trang bị kiến thức sang phát triển phẩm chất và năng lực của học sinh. Mặt khác, chương trình tổng thể còn cụ thể hóa mục tiêu giáo dục toàn diện và hài hòa đức, trí, thể, mỹ thành mục tiêu của từng cấp học và nêu được những biểu hiện chủ yếu về phẩm chất, năng lực học sinh ở từng cấp học. Chương trình tổng thể đáp ứng yêu cầu của giai đoạn giáo dục cơ bản gồm cấp tiểu học năm năm và cấp THCS bốn năm, bảo đảm trang bị cho học sinh tri thức phổ thông nền tảng, toàn diện, cần thiết, đáp ứng yêu cầu phân luồng sau THCS. Trong khi đó, giai đoạn giáo dục định hướng nghề nghiệp cấp THPT ba năm bảo đảm học sinh tiếp cận nghề nghiệp phù hợp với năng lực, nguyện vọng và chuẩn bị cho giai đoạn sau giáo dục phổ thông có chất lượng. Theo các chuyên gia giáo dục, chương trình tổng thể đã định hướng khá rõ ràng cho các chương trình môn học về vị trí, mục tiêu, nội dung, phương pháp, hình thức tổ chức dạy học, đánh giá giáo dục học sinh. Chương trình tổng thể cũng khẳng định những điều kiện cơ bản, tối thiểu về công tác quản lý, đội ngũ giáo viên, cơ sở vật chất, kỹ thuật của trường phổ thông; phù hợp với thực tiễn, đồng thời đặt ra yêu cầu nhà trường phải liên tục phát triển, tích cực thay đổi cách dạy và học. Bên cạnh việc nhất trí với các nội dung trong dự thảo chương trình tổng thể, một số ý kiến còn băn khoăn đề nghị Bộ GD và ĐT làm rõ, bổ sung vào trong dự thảo. Theo PGS Văn Như Cương, Trường THPT dân lập Lương Thế Vinh Hà Nội Bộ GD và ĐT cần xác định rõ mục tiêu, mục đích của giáo dục Việt Nam. Hiện nay, mục tiêu của các cấp học cuối cùng để thi đại học. “Một nền giáo dục ứng thí, phục vụ việc thi, lên lớp, không phải để phục vụ đời sống cao hơn. Do đó, toàn bộ đổi mới lần này phải nhắm vào việc bằng cấp không có giá trị mà là lao động có giá trị, làm ra của cải cho xã hội. Mặt khác, nếu không thay đổi lại mục tiêu giáo dục, không phân luồng mạnh học sinh sau trung học phổ thông, Việt Nam sẽ phải nhập khẩu lao động thợ bậc cao, còn lao động Việt Nam chỉ đi làm thuê những ngành nghề đơn giản nhất” - PGS Văn Như Cương nhấn mạnh. Tại hội nghị góp ý vào dự thảo chương trình giáo dục phổ thông tổng thể mới đây, Hiệp hội các trường đại học, cao đẳng Việt Nam đề nghị Bộ GD và ĐT cần công bố công khai danh tính “kiến trúc sư” của chương trình tổng thể, cũng như của từng môn học cụ thể để toàn xã hội biết. Không nên theo cách làm lâu nay là chỉ gắn chương trình với một tập thể mà thường là gồm những người có chức sắc hoặc gắn với người đứng đầu ngành. Theo đó, Bộ GD và ĐT chỉ nên ban hành chương trình chuẩn và cho phép các địa phương, các trường được quyền điều chỉnh để hoàn thành chương trình cụ thể. Trong khi đó, nhiều ý kiến cũng cho rằng, dự thảo chương trình tổng thể coi trọng việc dạy học theo hướng tích hợp và phân hóa nhưng phân hóa cuối cùng của THPT là Khoa học xã hội và Khoa học tự nhiên. Tuy nhiên, khi định hướng nghề nghiệp mà chỉ chia hai khối như trên là không đủ... Theo Thứ trưởng GD và ĐT Nguyễn Vinh Hiển Trong dự thảo chương trình tổng thể, chương trình THPT được xây dựng theo tinh thần bảo đảm phân hóa mạnh và sâu dần từ lớp 10 đến lớp 11, 12; học sinh học một số môn bắt buộc, đồng thời được tự chọn các môn học từ lớp 10 và chuyên đề học tập từ lớp 11, trong đó có những chuyên đề riêng về hướng nghiệp. Kết thúc giai đoạn này, học sinh có kiến thức, kỹ năng phổ thông cơ bản được quy định hướng theo lĩnh vực nghề nghiệp, phù hợp với năng khiếu, sở thích, phát triển tiềm năng cá nhân để chuẩn bị tốt cho giai đoạn giáo dục sau phổ thông hoặc bước vào cuộc sống lao động. Chương trình tổng thể sẽ quy định rõ hơn theo định hướng sau Học sinh THPT học tối thiểu bảy hoặc sáu môn và các chuyên đề học tập, hoạt động trải nghiệm sáng tạo; trong đó có bốn môn bắt buộc là Ngữ văn 1, Toán 1, Công dân với Tổ quốc, Ngoại ngữ 1. Các môn học tự chọn được định hướng như sau Tự chọn tùy ý, chọn theo nhóm môn... Đáng chú ý, nhiều ý kiến đề nghị có các môn học Lịch sử, Quốc phòng - An ninh trong chương trình giáo dục phổ thông mới. Bộ GD và ĐT cho rằng, theo dự thảo chương trình tổng thể, ở THPT, môn Công dân với Tổ quốc là một trong bốn môn học bắt buộc, tích hợp của ba phân môn Đạo đức - Công dân, Lịch sử và Quốc phòng - An ninh, đáp ứng yêu cầu cơ bản của chương trình giáo dục phổ thông mới là định hướng phát triển phẩm chất và năng lực học sinh; định hướng giá trị công dân quyền và nghĩa vụ, hội nhập quốc tế… Như vậy, nội dung giáo dục Lịch sử và Quốc phòng - An ninh là các nội dung giáo dục bắt buộc đối với tất cả học sinh cấp THPT. Ngoài ra, ở cấp THPT, học sinh còn được tự chọn học Lịch sử ở môn Khoa học xã hội là môn học dành cho những học sinh thiên hướng về các ngành thuộc lĩnh vực Khoa học tự nhiên và Công nghệ hoặc môn Lịch sử chọn theo nhóm và một số chuyên đề học tập mở rộng, chuyên sâu về Lịch sử là môn học và chuyên đề học tập dành cho học sinh có thiên hướng về Khoa học xã hội và Nghệ thuật. Đồng thời, nội dung này còn được giáo dục tích hợp trong các môn học khác, khắc phục sự trùng lặp trong nhiều môn học khác nhau ở chương trình giáo dục phổ thông hiện hành. Bộ trưởng Phùng Xuân Nhạ báo cáo tham luận tại Đại hội Đảng lần thứ XIII. Trong bài tham luận của Bộ trưởng Phùng Xuân Nhạ tại Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ XIII, những kết quả mà ngành giáo dục đào tạo đạt được như sau Những kết quả nổi bật Hệ thống cơ chế, chính sách trong lĩnh vực giáo dục và đào tạo cơ bản được hoàn thiện Bộ GD-ĐT đã rà soát, trình Chính phủ, Quốc hội ban hành và ban hành theo thẩm quyền các cơ chế, chính sách khắc phục những hạn chế, bất cập tồn tại từ nhiều năm trước. Lần đầu tiên trong 2 năm liên tiếp, Bộ đã tham mưu Chính phủ trình Quốc hội thông qua Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Giáo dục đại học năm 2018 và Luật Giáo dục sửa đổi, ban hành mới năm 2019, giải quyết những “nút thắt” và tạo hành lang pháp lý cho các hoạt động đổi mới căn bản, toàn diện giáo dục, đào tạo. Năm 2016, Thủ tướng Chính phủ đã ban hành khung cơ cấu hệ thống giáo dục quốc dân. Đến nay, về cơ bản các chủ trương của Nghị quyết 29 đã được thể chế hóa và được cụ thể trong các văn bản hướng dẫn thực hiện. Hoàn thành phổ cập giáo dục mầm non; duy trì, nâng cao chất lượng phổ cập giáo dục tiểu học và trung học cơ sở Chỉ tiêu về đạt chuẩn phổ cập giáo dục mầm non trên toàn quốc cho trẻ 5 tuổi đã hoàn thành ngay từ đầu năm 2017 với tỷ lệ huy động trẻ mẫu giáo 5 tuổi đạt 99,98%. Bên cạnh đó, cả nước đã đạt chuẩn phổ cập giáo dục tiểu học mức độ 2, trong đó có 18/63 tỉnh, thành phố đạt mức độ; cả nước đạt chuẩn phổ cập giáo dục trung học cơ sở mức độ 1, trong đó có 19/63 tỉnh, thành phố đạt mức độ 2, mức độ 3... Theo Bộ trưởng Nhạ, chủ trương một chương trình, nhiều bộ sách giáo khoa nhằm khuyến khích sự sáng tạo trong dạy và học của giáo viên đã có những thành công bước đầu. Ban hành và tích cực triển khai Chương trình giáo dục phổ thông mới Cuối năm 2019, Bộ trưởng Bộ GD-ĐT đã phê duyệt 5 bộ sách giáo khoa lớp 1, với tổng số 46 quyển của 9 môn học và hoạt động giáo dục cho phép sử dụng trong năm học 2020-2021. Việc lựa chọn sách giáo khoa được các địa phương thực hiện cơ bản nghiêm túc, công khai, minh bạch. Đây là lần đầu tiên trong lịch sử ngành giáo dục nước ta thực hiện chủ trương này và đã có kết quả bước đầu đáng khích lệ. Công tác tổ chức thi, kiểm tra, đánh giá chất lượng giáo dục ngày càng thực chất, hiệu quả hơn Đổi mới thi, kiểm tra và đánh giá chất lượng đối với giáo dục tiểu học, trung học cơ sở và trung học phổ thông được triển khai theo hướng đánh giá năng lực, kết hợp kết quả quá trình với kết quả cuối năm học. Các bậc học sau phổ thông đã chuyển việc tổ chức đào tạo theo niên chế sang tích lũy mô đun hoặc tín chỉ. Việc kiểm tra, đánh giá trình độ đào tạo thạc sĩ và tiến sĩ được thực hiện chặt chẽ hơn; chất lượng các luận văn, luận án từng bước theo tiêu chuẩn quốc tế. Công tác đổi mới thi tốt nghiệp trung học phổ thông, tuyển sinh đại học, cao đẳng được triển khai theo hướng đánh giá năng lực, kết hợp kết quả quá trình với kết quả cuối năm học, giảm áp lực và tốn kém cho xã hội. Chất lượng giáo dục phổ thông cả đại trà và mũi nhọn đều được nâng lên, được quốc tế ghi nhận, đánh giá cao Theo báo cáo năm 2020 của Ngân hàng Thế giới về Vốn nhân lực, thành phần kết quả giáo dục của Việt Nam đứng thứ 15, tương đương với các nước như Hà Lan, New Zealand, Thụy Điển. Nhiều chỉ số về Giáo dục của Việt Nam được đánh giá cao trong khu vực, như tỷ lệ học sinh đi học và hoàn thành Chương trình tiểu học sau 5 năm đạt 92,08%, đứng ở tốp đầu của khối ASEAN; kết quả Chương trình Đánh giá kết quả học tập của học sinh tiểu học các nước Đông Nam Á SEA PLM năm 2019 cho thấy chất lượng giáo dục tiểu học của Việt Nam đứng vào tốp đầu của các nước ASEAN. Trong các đợt đánh giá PISA, Việt Nam có kết quả vượt trội so với trung bình của các nước trong khối OECD trong khi mức đầu tư cho giáo dục thấp hơn hẳn. Kết quả thi Olympic của học sinh Việt Nam những năm vừa qua có bước tiến bộ vượt bậc với 49 huy chương Vàng trong giai đoạn 2016-2020 so với 27 huy chương Vàng trong giai đoạn 2011-2015; nhiều học sinh Việt Nam đạt điểm số cao nhất ở các nội dung thi. Tự chủ đại học được đẩy mạnh, chất lượng đào tạo đại học có nhiều chuyển biến tích cực Nếu như trước đây chỉ có hai đại học quốc gia được giao quyền tự chủ cao, thì từ năm 2014 đã có 23 cơ sở giáo dục đại học được thí điểm thực hiện tự chủ tương đối toàn diện theo Nghị quyết 77 của Chính phủ. Năm 2019, hệ thống giáo dục đại học Việt Nam xếp thứ 68/196 quốc gia trên thế giới, tăng 12 bậc so với năm 2018. Lần đầu tiên, Việt Nam có 4 cơ sở giáo dục đại học được vào top trường đại học tốt nhất thế giới; có 11 cơ sở giáo dục đại học Việt Nam nằm trong danh sách 500 trường đại học hàng đầu Châu Á. Công tác giáo dục chính trị tư tưởng, đạo đức, kỹ năng sống cho học sinh, sinh viên có nhiều chuyển biến tích cực Trong Chương trình giáo dục phổ thông mới, nội dung giáo dục đạo đức, lối sống, kỹ năng sống tiếp tục được chú trọng, thực hiện thông qua tất cả các môn học, hoạt động giáo dục. Tăng cường ứng dụng công nghệ thông tin, đẩy mạnh chuyển đổi số trong ngành giáo dục Toàn ngành Giáo dục đã đẩy mạnh ứng dụng công nghệ thông tin trong các hoạt động quản lý, dạy và học. Lần đầu tiên, toàn ngành Giáo dục đã xây dựng cơ sở dữ liệu ngành về giáo dục mầm non và giáo dục phổ thông. Công nghệ thông tin được sử dụng rộng rãi trong các trong các hoạt động dạy và học; dạy học qua internet, trên truyền hình được thực hiện mạnh mẽ, nhất là trong thời gian thực hiện giãn cách xã hội để phòng, chống dịch Covid-19. Chủ động hội nhập và nâng cao hiệu quả hợp tác quốc tế trong giáo dục, đào tạo. Đến nay, Việt Nam đã thiết lập quan hệ hợp tác giáo dục với hơn 100 quốc gia và vùng lãnh thổ. Thí sinh phấn chấn kết thúc ngày thi đầu tiên 5 hạn chế, bất cập Cũng theo Bộ trưởng Nhạ, sau 7 năm triển khai thực hiện Nghị quyết 29 của Trung ương, ngành giáo dục vẫn còn một số hạn chế, bất cập. Đó là công tác quản lý nhà nước, quản trị nhà trường còn bất cập, trách nhiệm còn chồng chéo; việc kiện toàn Hội đồng trường các cơ sở giáo dục đại học còn chậm, hoạt động chưa thực chất, chưa phát huy tốt vai trò của Hội đồng trường. Thứ hai là tình trạng thừa, thiếu giáo viên cục bộ vẫn chưa được giải quyết triệt để ở một số địa phương; chất lượng đội ngũ giáo viên chưa đồng đều, còn một bộ phận giáo viên chưa đáp ứng được yêu cầu đổi mới, cá biệt có những giáo viên vi phạm đạo đức nhà giáo, gây bức xúc xã hội. Thứ ba là quy hoạch mạng lưới cơ sở giáo dục mầm non, phổ thông ở một số địa phương chưa phù hợp, còn tình trạng thiếu trường, lớp ở một số khu đô thị, khu công nghiệp; thiếu đất cho xây dựng trường học, đặc biệt là ở các thành phố lớn; quy hoạch mạng lưới các cơ sở giáo dục đại học và sư phạm còn chậm. Thứ tư là hệ thống quản lý, quản trị, kết nối, khai thác dữ liệu ngành phục vụ công tác quản lý, điều hành, dạy học còn chưa đồng bộ; một số nơi hạ tầng công nghệ thông tin, thiết bị kết nối còn thiếu, đặc biệt ở các vùng sâu, vùng xa, vùng có điều kiện kinh tế - xã hội khó khăn,chưa đáp ứng yêu cầu chuyển đổi số. Và bất cập thứ năm là công tác truyền thông về giáo dục còn hạn chế, chưa tạo được đồng thuận cao trong xã hội khi bắt đầu triển khai nhiều chủ trương, chính sách mới của ngành. Truyền thông nội bộ ngành chưa hiệu quả, còn những ý kiến trái chiều ngay trong đội ngũ giáo viên khi triển khai chính sách mới. Ông Nhạ cũng trình bày một loạt giải pháp tiếp tục thực hiện trong thời gian tới. Các giải pháp này thuộc 5 nhóm, trong đó được coi là đột phá là nhóm giải pháp về đổi mới cơ chế quản lý nhà nước và quản trị nhà trường. Ngoài ra là các nhóm giải pháp về Phát triển, nâng cao chất lượng đội ngũ giáo viên và cán bộ quản lý giáo dục; Tiếp tục rà soát, quy hoạch mạng lưới trường, lớp; Đẩy nhanh chuyển đổi số trong giáo dục và Tăng cường công tác truyền thông. Ngân Anh Tham luận của Bộ trưởng Giáo dục và Đào tạo tại Đại hội XIII Bài tham luận của Ủy viên Trung ương Đảng, Bộ trưởng Bộ Giáo dục và Đào tạo Phùng Xuân Nhạ tại Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ XIII, sáng 27/1. Chuyên gia UNESCO nêu 2 khuyến nghị cho Giáo dục Việt Nam Bà Dominique Altner, Chuyên gia Chương trình Cao cấp tại Viện chiến lược giáo dục UNESCO, đã có những chia sẻ về sự phát triển của giáo dục Việt Nam trong 5 năm vừa qua. Phóng toNội dung SGK chưa tính đến điều kiện vùng miền, do đó chưa phù hợp với học sinh ở các vùng sâu, vùng xa, vùng đồng bào dân tộc thiểu số...TTO - Bộ GD-ĐT vừa tổng hợp các ý kiến đánh giá chương trình và sách giáo khoa mới từ giáo viên, cán bộ quản lý giáo dục ở 64 tỉnh thành, cùng Hội Cựu giáo chức Việt Nam, Hội Khuyến học Việt Nam và Liên hiệp các Hội Khoa học kỹ thuật Việt Nam. Ngoài một số ưu điểm rõ ràng được đa số công nhận, chương trình và sách giáo khoa SGK bị cho rằng vẫn còn rất nhiều thiếu sót và khuyết điểm. Công nhận nhiều thiếu sót Chương trình giáo dục phổ thông chưa đảm bảo sự cân đối giữa “dạy chữ” và “dạy người”, còn nặng về kiến thức, chưa coi trọng việc hình thành nhân cách cho trẻ em. Chưa chỉ rõ nội dung và cách thức đánh giá sự trưởng thành về nhân cách của học sinh sau mỗi cấp học. Một số chủ đề trong chương trình một số môn học ở trung học còn mang nặng tính hàn lâm với phần đông học sinh, ít thực hành và rèn luyện kĩ năng như ngữ văn, sinh học, vật lý, tiếng Anh. Yêu cầu của chương trình là cao đối với bộ phận học sinh có học lực yếu kém, học sinh nhóm dân tộc thiểu số và học sinh sinh sống ở địa bàn có điều kiện kinh tế - xã hội khó khăn. Còn một số nội dung ở chương trình, một số môn học cấp THPT chưa thực sự cơ bản, làm cho khối lượng kiến thức gia tăng quá mức. Còn có sự trùng lặp nội dung ở một số môn học như sinh học và công nghệ; hoạt động ngoài giờ lên lớp và giáo dục công dân; giáo dục hướng nghiệp và nghề phổ thông. Nội dung của các môn có quan hệ mật thiết với nhau nhưng còn chưa thực sự hỗ trợ cho nhau như môn vật lý phải sử dụng những kiến thức của môn toán mà tại thời điểm đó học sinh chưa được học. Ngoài ra, theo phản ánh của nhiều phụ huynh và học sinh, yêu cầu cần đạt đối với môn thể dục là không phù hợp với thực tế rất đa dạng về chiều cao, sức khỏe, cân nặng của học sinh các vùng miền và trong mỗi lớp, gây ra sự căng thẳng về tâm lý và quá tải về thể lực với một bộ phận học sinh. Hiện nay tại các trường trong cả nước, nhiều môn học như ngữ văn, lịch sử, địa lý, giáo dục công dân giáo viên yêu cầu học sinh phải thuộc lòng các bài mẫu, các số liệu chi tiết quá nhiều, chưa đòi hỏi đúng mức việc hiểu và vận dụng các kiến thức, giá trị cần đạt tới, do đó vừa gây quá tải cho việc học tập, vừa không khuyến khích sự sáng tạo, hình thành chính kiến của học sinh. Ngoài ra còn có sự không phù hợp giữa dung lượng kiến thức thể hiện qua tổng số môn học và hoạt động giáo dục và thời lượng học tập. Học sinh phải học trên 6 buổi trong một tuần, sinh hoạt chuyên môn của giáo viên có khi phải làm vào chủ nhật. Đồng thời có sự không phù hợp giữa chương trình giáo dục với điều kiện cơ sở vật chất nhà trường và trình độ của một bộ phận giáo viên. Về đánh giá SGK phổ thông, các đánh giá tập trung vào việc phê bình nhiều thuật ngữ khoa học trình bày trong một số cuốn SGK còn khó, trừu tượng hoặc chưa chuẩn xác, chưa nhất quán trong một lớp, giữa các lớp, giữa các cấp học. Cách dùng từ, thuật ngữ, khái niệm, ký hiệu, cách tiếp cận giữa SGK theo chương trình chuẩn và SGK nâng cao ở một số môn học cấp THPT có chỗ chưa thống nhất, gây khó khăn nhiều cho giáo viên, học sinh như SGK các môn vật lý, toán, ngữ văn. Một số phần trong một số cuốn SGK thiếu sự cân đối cần thiết giữa lý thuyết và thực hành, giữa ôn tập và kiểm tra; chưa chú ý đúng mức đến yêu cầu vận dụng kiến thức vào giải quyết các vấn đề thực tiễn. Ngoài ra, còn có một số ý kiến trong dư luận xã hội cho rằng SGK lớp 1 có khổ tương đối to và nặng so với học sinh. Nhìn chung, nội dung SGK chưa tính đến điều kiện vùng miền, do đó chưa phù hợp với học sinh ở các vùng sâu, vùng xa, vùng đồng bào dân tộc thiểu số… Bộ GD-ĐT làm gì để khắc phục? Theo Bộ GD-ĐT, bộ sẽ tiếp tục chỉ đạo tổ chức các đánh giá toàn diện về chương trình và SGK ở các năm học tiếp theo 2008-2009, 2009-2010, có thể 2010-2011 cho lớp 12 để tiếp tục thu thập các ý kiến về chương trình và SGK sau một số năm triển khai, từ đó có hướng dẫn điều chỉnh nội dung và cách dạy từng môn một cách phù hợp. Căn cứ kết quả đánh giá một số năm với từng SGK, nếu có đầy đủ các thông tin về chất lượng kém của một số SGK cụ thể, có thể sẽ quyết định viết lại. Đồng thời, ngay từ bây giờ bắt đầu triển khai các nghiên cứu để xây dựng một chương trình giáo dục phổ thông mới, triển khai sau năm 2010. Chương trình giáo dục phổ thông sẽ được đổi mới một cách cơ bản theo hướng tích hợp các môn học, tạo cơ hội lựa chọn nội dung học tập nhiều hơn, biến quá trình dạy học thành quá trình tự học có hướng dẫn và hỗ trợ tối ưu của giáo viên ngay trong học tập ở phổ thông, tăng cường hoạt động xã hội của học sinh. Dựa trên chuẩn chương trình quốc gia, hướng dẫn thực hiện phù hợp với các vùng, miền khác nhau, xây dựng các nội dung giáo dục địa phương phù hợp với nhu cầu và điều kiện của các vùng, miền, đặc biệt với học sinh dân tộc thiểu số. Tổ chức biên soạn một số bộ SGK dựa trên chương trình quốc gia. Các bộ SGK này sẽ do Bộ GD-ĐT tổ chức thẩm định và trao quyền lựa chọn sử dụng cho các địa phương. Bộ GD-ĐT cho biết sẽ thực hiện ngay một số giải pháp điều chỉnh lại kế hoạch dạy học, rút bớt thời lượng học tập ở mỗi tuần, đảm bảo tối đa ở tiểu học là 25 tiết/tuần, THCS là 28 tiết/tuần và THPT là 29 tiết/tuần để không gây quá tải cho cả giáo viên và học sinh; xem xét, điều chỉnh một số môn học từ bắt buộc sang tự chọn; từ ngày 1-7-2008, khai trương mục “Góp ý SGK” trên trang tin điện tử của Bộ GD-ĐT để mọi người dân có thể đóng góp trực tiếp. Đổi mới mạnh mẽ cách thức kiểm tra, thi. Kiên quyết giảm tình trạng kiểm tra, thi với yêu cầu học sinh phải thuộc lòng nhiều sự kiện, các bài văn mẫu; tăng cường các câu hỏi đòi hỏi học sinh suy nghĩ, trả lời theo cách hiểu và vận dụng của riêng mình. Đối với các môn năng khiếu như âm nhạc, mỹ thuật, thể dục sẽ đánh giá theo mức “đạt” hoặc “không đạt”. Đặc biệt, môn thể dục sẽ nghiên cứu chuyển sang hướng khuyến khích học sinh luyện tập thể thao có hệ thống, có cơ sở khoa học và phấn đấu nâng cao thể lực phù hợp với đặc điểm của mỗi học sinh. Đồng thời Bộ sẽ chỉ đạo xem xét điều chỉnh thời gian nghỉ hè của học sinh, nhất là ở THPT và chuyển một số môn từ bắt buộc sang tự chọn bắt buộc trong một nhóm các môn nhằm làm giảm tổng số môn học với một học sinh... VHO-Bộ GD&ĐT chính thức công bố chương trình giáo dục phổ thông mới chương trình, theo đó kế hoạch thực hiện Chương trình bắt đầu từ năm học 2020-2021 với lớp 1, từ năm học 2021- 2022 với lớp 6, từ năm học 2022- 2023 với lớp 10. Bạn đang xem Hạn chế của chương trình giáo dục phổ thông mớiChương trình giáo dục phổ thông mới liệu có được như kỳ vọng? Ảnh Tại các cuộc họp báo, hội nghị, tập huấn, lãnh đạo Bộ GD&ĐT tỏ ra khá lạc quan, tin tưởng vào ưu điểm và thành công của chương trình giáo dục phổ thông mới. Tuy nhiên, nhiều cán bộ quản lý giáo dục và thầy cô giáo ở các cơ sở giáo dục lại có không ít băn khoăn, lo lắng về các điều kiện “cần” và “đủ” để thực hiện được chương trình giáo dục phổ thông mới lần này. 1. Thực tế, trước khi được công bố, chương trình đã được thí điểm tại 6 tỉnh, thành, nhiều nội dung trong chương trình mới vẫn bị phản ánh là quá tải, tăng áp lực và chưa phù hợp với độ tuổi học sinh. Thậm chí, trong chương trình mới có một số yêu cầu đặt ra còn cao hơn trình độ học sinh, một số bài thực nghiệm tương đối khó, một số bài vẫn nặng về kiến thức, dung lượng của một số bài chưa phù hợp với thời lượng dạy. Đơn cử như môn hóa học, ngay chương trình nguyên tử lớp 10 đã bê nguyên chương trình hóa học đại cương ở bậc đại học dẫn đến nặng nề so với chương trình cũ và cũng quá hàn lâm khi học sinh học xong nguyên tử cũng không biết sẽ ứng dụng thế nào vào cuộc sống. 2. Chất lượng, năng lực đội ngũ giáo viên, một trong những yếu tố quyết định nhất của đổi mới giáo dục lại trong tình trạng “vàng, thau lẫn lộn”. Nội dung, kiến thức, phương pháp cách thức dạy học mới, nhất là tích hợp liên môn… thì hiện có bao nhiêu phần trăm thầy cô giáo đáp ứng được yêu cầu mới ấy? Dạy học tích hợp theo các định hướng sau Tích hợp nội môn Tích hợp giữa các đơn vị kiến thức khác nhau trong cùng một môn học, tích hợp giữa yêu cầu trang bị kiến thức với việc rèn luyện kỹ năng. Tích hợp liên môn Tích hợp kiến thức của các môn học, khoa học có liên quan với nhau. Việc triển khai các định hướng trên thì thách thức đáng kể nhất là dạy các môn học tích hợp khoa học tự nhiên, lịch sử, địa lý ở cấp trung học cơ sở. Trên thực tế, nhiều giáo viên vẫn băn khoăn với khái niệm thế nào là tích hợp liên môn. Đặc biệt ở bậc THCS, THPT, mỗi giáo viên đảm nhiệm một môn học và không dễ dạy tích hợp với môn học khác. Có thầy cô giáo lâu nay còn chưa thể tin vào chuyện “3 thầy 1 sách” và khẳng định giáo viên Vật lý không thể kiêm nhiệm Hóa học, Sinh học, hay giáo viên Lịch sử không thể dạy Địa lý. 3. Công tác bồi dưỡng, tập huấn, đào tạo lại phải thay đổi như thế nào? từ phía người tổ chức, người hướng dẫn đến người học. Trong thời gian tới để thật sự chất lượng, hiệu quả, tránh tình trạng “điểm danh, ghi tên”, rất hình thức, chung chung, học xong chẳng áp dụng, thực hiện được cái gì cả. 4. Chương trình giáo dục phổ thông mới đã thay đổi về lượng và chất, vậy thì các trường sư phạm, đào tạo giáo viên có “cùng hội, cùng thuyền”, đi song hành hay không, hay các thầy, các trường đó vẫn dùng những giáo trình, cách thức đào tạo theo lối xưa cũ, lạc hậu? Đào tạo đơn môn lại bắt giáo viên ra trường dạy đa môn, dạy tích hợp liên môn… Trường sư phạm không đào tạo giáo viên dạy môn, hoạt động trải nghiệm và hướng nghiệp mà ở nhà trường phổ thông vẫn phải thực hiện môn, hoạt động ấy. Cứ lấy giáo viên môn khác làm kiêm nhiệm, được chăng hay chớ. Bộ GD&ĐT và các trường sư phạm đã thấy rõ bất cập này tồn tại hàng chục năm nay hay chưa? Và đã có biện pháp gì để khắc phục khi thực hiện chương trình giáo dục phổ thông mới? 5. Về việc đảm bảo cơ sở vật chất, trang thiết bị cho hoạt động giáo dục nhà trường cũng được chương trình giáo dục phổ thông mới đề cập đến. Nhưng với thực tế hiện nay, nhiều cơ sở giáo dục, địa phương về điều kiện trên là khó khả thi. Thiếu phòng học trầm trọng, lớp học quá đông học sinh. Trang thiết bị cũ kỹ, hư hỏng, thiếu nhiều, thầy và trò chủ yếu dạy chay - học chay. Ví dụ, để áp dụng Chương trình mới, điều kiện tối thiểu là học sinh tiểu học phải học 2 buổi/ngày hoặc tối thiểu 6 buổi/tuần, sĩ số theo chuẩn phải là 35 học sinh/lớp đối với cấp tiểu học và 45 học sinh/lớp với cấp trung học. Ngoài ra, lớp học phải đảm bảo điều kiện có thể kê được bàn ghế theo nhóm. Tuy nhiên, với điều kiện cơ sở vật chất hiện nay của nhiều trường trong cả nước, quy định này là một thách thức không nhỏ. 6. Trong chương trình mới, có những môn học tự chọn, học sinh có quyền chọn lựa một số môn học theo năng lực, sở trường của mình. Nhưng trong khi đó nhà trường giáo viên không đáp ứng được thì tính toán thế nào? Trong trường hợp, có môn học, học sinh chọn rất nhiều, song có môn học không có mấy, thậm chí không có em nào thì nhà trường sắp xếp ra sao để tránh lãng phí về nguồn lực? Các trường gần nhau thì dễ điều tiết. Còn các trường xa nhau miền núi, hải đảo… thì phải làm sao đây?7. Hoạt động trải nghiệm, hướng nghiệp hoạt động giáo dục bắt buộc bị xem là “rượu cũ, bình mới” từ hoạt động ngoài giờ lên lớp và hướng nghiệp trong chương trình hiện hành. Nó đang được thực hiện rất hình thức, hời hợt, kém hiệu quả trong nhiều cơ sở hiện nay. Vậy thì khi thực hiện chương trình mới, Bộ GD&ĐT có những biện pháp cụ thể nào để khắc phục những bất cập, hạn chế của hoạt động đó? 8. Thực tế, cấp trên luôn yêu cầu các cơ sở giáo dục đẩy mạnh việc đổi mới phương pháp dạy học, lấy học sinh làm trung tâm, phát triển năng lực người học, thay vì truyền thụ kiến thức một thêm Mạch Khuếch Đại Cao Tần Trong Máy Phát Thanh Bằng Sóng Vô Tuyến Có Chức Năng Nhưng đến lúc kiểm tra, thi cử lại nặng về thuộc nhớ, tái hiện, thông hiểu kiến thức nên người dạy học theo kiểu truyền thống thì học trò đạt điểm cao và đỗ nhiều, còn người dạy theo phương pháp tích cực thì học trò đạt điểm thấp và đỗ ít. Cùng với bệnh thành tích và áp đặt chỉ tiêu, có còn giáo viên nào dám tiếp tục theo đuổi đến cùng phương pháp dạy học tích cực nữa không? Đổi mới nội dung, phương pháp dạy học cần đi liền với đổi mới khâu kiểm tra, đánh giá ở nhà trường phổ thông.

hạn chế của chương trình giáo dục phổ thông mới