hướng dẫn học sinh tự học môn lịch sử

Mục tiêu của bộ môn Lịch sử 12. 1.4. Phương hướng đổi mới việc hướng dẫn học sinh tự kiểm tra, đánh giá kết quả học tập của học sinh trong dạy học Lịch sử ở trường THPT 19 Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Hướng dẫn học sinh tự kiểm tra, đánh Trước câu hỏi có nên tích hợp môn Lịch sử, học sinh không chuyên thì ủng hộ, học sinh chuyên phản đối, nhưng tất cả đều cho rằng cần thiết phải thay đổi cách dạy Lịch sử để hấp dẫn và dễ tiếp thu hơn. Là học sinh không chuyên khối C, Đỗ Xuân Huy, lớp 12D6 THPT Làm thế nào để môn Sử "hồi sinh"? Thứ bảy, 27/07/2019 - 04:09. (Dân trí) - Để làm sống lại môn Lịch sử, điều đơn giản là bồi đắp tình yêu môn Sử cho học sinh. Các em phải được học sử thông qua các câu chuyện bổ ích, các chuyến tham quan, thực tế ý nghĩa, các Học sinh cần được hướng dẫn phương pháp tự học, biết cách tìm tòi, khai thác các nguồn sử liệu, đồng thời biết cách phân tích sự kiện, quá trình lịch sử và tự mình rút ra những nhận xét, đánh giá, tạo cơ sở phát triển năng lực tự học lịch sử suốt đời và Để học sinh hứng thú học môn Lịch sử. Thứ sáu - 30/06/2017 08:00 Thiết nghĩ, trong dạy học môn Lịch sử cần cho các em từ biết đến hiểu, từ hiểu đến hứng thú, từ hứng thú đến đam mê. MC NGỌC HÂN hướng dẫn cách nhanh nhất đến cổng check in Pagaron Hall - PARIS mimpi rumah roboh milik orang tua togel. Ngày đăng 03/04/2013, 0949 Hướng dẫn, học sinh tự, kiểm tra, đánh giá, học tập lịch sử, thế giới lớp 10 , trường Trung học phổ thông A. PHẦN MỞ ĐẦU 1. LÝ DO CHỌN ĐỀ TÀI Vấn đề đổi mới phương pháp dạy học Lịch sử nói chung, phương pháp kiểm tra, đánh giá và tự kiểm tra, đánh giá trong dạy và học Lịch sử nói riêng là một trong những vấn đề mang tính chiến lược cấp thiết trước những yêu cầu đổi mới toàn diện của đất nước. Đổi mới nền giáo dục và đào tạo có ý nghĩa vô cùng lớn lao, là yếu tố quan trọng hàng đầu đáp ứng việc “đào tạo bồi dưỡng và nâng cao chất lượng nguồn nhân lực để đáp ứng yêu cầu công nghiệp hoá, hiện đại hoá”. Cùng với việc đổi mới về nội dung, chương trình giảng dạy, chúng ta cần đổi mới cả về phương pháp dạy học trong đó có đổi mới phương pháp kiểm tra, đánh giá và tự kiểm tra, đánh giá. Việc xác định phương pháp dạy học nói chung và dạy học Lịch sử nói riêng là yêu cầu khách quan cấp thiết để thực hiện đúng mục tiêu đào tạo của nước ta như trong hội nghị lần thứ II Ban chấp hành Trung ương Đảng Cộng Sản Việt Nam khoá VIII đã đề ra nghị quyết về định hướng phát triển giáo dục, đào tạo trong thời kỳ công nghiệp hoá, hiện đại hoá và nhiệm vụ đến năm 2010 như sau “Nhằm xây dựng những con người và thế hệ thiết tha gắn bó với lý tưởng độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội, có đạo đức trong sáng, có ý chí kiên cường xây dựng và bảo vệ tổ quốc; công nghiệp hoá, hiện đại hoá; gìn giữ và phát huy các giá trị văn hoá của dân tộc và con người Việt Nam, có ý thức cộng đồng và phát huy tính tích cực của cá nhân, làm chủ trí thức và khoa học công nghệ hiện đại, có tư duy sáng tạo, có tính tổ chức và kỷ luật; có sức khoẻ, là những người thừa kế xây dựng chủ nghĩa xã hội vừa “hồng” vừa “chuyên” như lời căn dặn của Bác Hồ”. Xuất phát từ mục tiêu trên, việc dạy học Lịch sử phải đáp ứng được mục tiêu của Đảng và Nhà nước đề ra, nhất là việc đổi mới phương pháp dạy học. Như vậy, vấn đề đổi mới giáo dục đào tạo nói chung, đổi mới phương pháp dạy học Lịch sử nói riêng trong đó có phương pháp kiểm tra, đánh giá và tự kiểm tra, đánh giá trong dạy và học lịch sử luôn được Đảng 1 và nhà nước quan tâm. Mặt khác, việc đổi mới phương pháp dạy học là một trong những biện pháp hữu hiệu để nhà trường và giáo viên thực hiện tốt những mục tiêu trên. Để thực hiện tốt những mục tiêu của Đảng và nhà nước về giáo dục, đào tạo, nhà trường phổ thông đóng vai trò quan trọng. Bộ môn Lịch sử với chức năng nhiệm vụ của mình góp phần tích cực vào việc thực hiện mục tiêu đào tạo và Lịch sử được xem như là một môn học quan trọng và có ưu thế trong việc giáo dục thế hệ trẻ. Tri thức Lịch sử là một trong những phương tiện giáo dục có hiệu quả về tư tưởng tiến bộ, phẩm chất đạo đức cách mạng. Lịch sử giáo dục cho con người lòng tin vào chính nghĩa và chân lý, có tác dụng rất tốt trong việc giáo dục lòng yêu nước, tinh thần quốc tế vô sản, lòng yêu lao động, rèn luyện ý thức năng lực thẩm mỹ. Chính vì Lịch sử có vai trò lớn như vậy cho nên việc cải tiến phương pháp dạy học Lịch sử là việc rất quan trọng nhằm góp phần phát triển toàn diện học sinh. Chính vì vậy mà việc học tập và dạy học Lịch sử luôn đóng vai trò không thể thiếu trong sự nghiệp xây dựng đất nước. Tuy nhiên, hiện nay, việc dạy và học Lịch sử ở các trường phổ thông, bên cạnh ưu điểm vẫn còn một số hạn chế cần được khắc phục như chương trình dạy học Lịch sử vẫn còn nặng về lý thuyết, nhẹ về thực hành, chưa tạo được điều kiện cho học sinh phát huy tính tích cực, vận dụng những kiến thức đã học để tiếp thu kiến thức mới vào cuộc sống. Chính vì vậy cần phải đổi mới phương pháp dạy học Lịch sử trong đó phải nhất thiết tiến hành đổi mới phương pháp kiểm tra, đánh giá và tự kiểm tra đánh giá trong dạy và học tập Lịch sử ở các trường phổ thông hiện nay. Một trong những nội dung đổi mới phương pháp dạy học được nhiều người quan tâm là đổi mới việc kiểm tra – đánh giá và tự kiểm tra, đánh giá trong dạy và học tập lịch sử. Việc kiểm tra, đánh giá học sinh của thầy giáo và tự kiểm tra, đánh giá của học sinh là một vấn đề hết sức quan trọng, bởi vì nó chẳng những là khâu cuối cùng đánh giá độ tin cậy cao mà còn có tác 2 dụng điều tiết trở lại hết sức mạnh mẽ đối với quá trình đào tạo. Như chúng ta đã thấy Dạy học là quá trình khép kín, để điều chỉnh quá trình này một cách có hiệu quả là cả người dạy và người học đều phải thu được những thông tin ngược từ việc kiểm tra – đánh giá kết quả học tập. Việc hướng dẫn học sinh tự kiểm tra, đánh giá kết quả học tập là một công việc rất khó của phương pháp dạy học, giúp học sinh hình thành năng lực tự học, kỹ năng, kỹ xảo của bộ môn. Qua việc tự kiểm tra, đánh giá của học sinh giúp giáo viên sẽ thấy được những thành công và những vấn đề cần rút kinh nghiệm trong giảng dạy, hiểu rõ mức độ kiến thức và kỹ năng của học sinh. Từ đó có những biện pháp sư phạm tích cực, thích hợp nhằm nâng cao chất lượng dạy học. Vì vậy, tôi mạnh dạn lựa chọn đề tài “Hướng dẫn học sinh tự kiểm tra, đánh giá trong học tập lịch sử thế giới lớp 10 chương trình chuẩn ở trường Trung học phổ thông”. 2. LỊCH SỬ NGHIÊN CỨU VẤN ĐỀ Vấn đề kiểm tra - kết quả học tập của học sinh từ lâu đã được nhiều nhà nghiên cứu trên thế giới, trong nước quan tâm và sử dụng vào trong dạy học. Tài liệu nước ngoài. Đến năm 1977, Becbi nhìn nhận vấn đề đánh giá theo khía cạnh khác, khá chính xác và đầy đủ, theo ông “Đánh giá giáo dục là sự thu thập và lý giải một cạc có bằng chứng như một phần của quá trình dẫn tới sự phán xét về giá trị theo quan điểm hành động”. Với quan niệm như vậy, Becbi đã đưa ra định nghĩa tương đối hoàn chỉnh, nó phản ánh khá đầy đủ bản chất của đánh giá giáo dục”. Theo Mager nhà nghiên cứu Pháp thì lại cho rằng Đánh giá là việc miêu tả tình hình của học sinh và giáo viên để dự đoán công việc phải tiếp tục và giúp học sinh tiến bộ”. 3 Trong cuốn giáo dục học - tập I của Savin ở chương X “Kiểm tra, đánh giá tri thức kỹ năng, kỹ xảo của học sinh” ông đã nêu rõ quan niệm về kiểm tra – đánh giá. Theo ông “Kiểm tra là một phương tiện quan trọng không chỉ để ngăn ngừa việc lãng quên mà còn để nắm được tri thức một cách vững chắc hơn…”. “Đánh giá có thể trở thành một phương tiện quan trọng để điều khiển sự học tập của học sinh, đẩy mạnh sự phát triển về công tác giáo dục của các em. Đánh giá được thực hiện trên cơ sở kiểm tra, đánh giá theo hệ thống 5 bậc Xuất sắc điểm 5, Tốt điểm4, Trung bình 3 điểm, Xấu điểm 2 và Rất xấu điểm 1. Như vậy, Savin đã quan niệm kiểm tra – đánh giá là hai hoạt động khác nhau nhưng có mối quan hệ biện chứng. Đặc biệt ông nhấn mạnh việc kiểm tra không dừng ở việc kiểm tra tri thức mà còn kiểm tra kỹ năng, kỹ xảo của học sinh. Theo tiến sĩ Đairi trong cuốn “Chuẩn bị giờ học Lịch sử như thế nào”, bằng những kinh nghiệm quý báu trong thực tế giảng dạy lịch sử ở nhà trường phổ thông, ông đã cho thấy tầm quan trọng, vị trí, ý nghĩa của việc kiểm tra – đánh giá kết quả học tậo bộ môn ở nhà trường. Đông thời, ông chỉ rõ “Kiểm tra không chỉ giới hạn ở chỗ phát hiện và cho điểm kiến thức, mà kiểm tra còn thúc đẩy học sinh học tập. Ngoài những chức năng kiểm tra và giáo dục, kiểm tra còn có chức năng giáo dưỡng và phát triển tư duy”. Cùng với Savin và Đairi, cũng nghiên cứu về hình thức kiểm tra – đánh giá. Ilina nhấn mạnh đến vai trò của kiểm tra – đánh giá, theo bà “Kiểm tra – đánh giá kiến thức, kỹ năng, kỹ xảo là rất quan trọng và là thành phần cấu tạo cần thiết của quá trình dạy học”. Từ đó, Ilina nêu lên các chức năng của kiểm tra – đánh giá gồm chức năng kiểm tra, chức năng dạy học, chức năng giáo dục. Ngoài ra bà cũng đề cập đến vấn đề đánh giá, theo bà “Việc đánh giá là một phương tiện kích thích mạnh mẽ và có ý nghĩa giáo dục lớn trong điều kiện nếu như nó được giáo viên sử dụng đúng đắn”. Như vậy, cũng như Savin và Đairi, Ilina đánh giá cao vấn 4 đề kiểm tra – đánh giá, đều coi kiểm tra – đánh giá để nâng cao chất lượng dạy học. Như vậy, vấn đề kiểm tra – đánh giá được nhiều học giả nước ngoài nghiên cứu, tìm hiểu. Mặc dù, có các quan điểm, cách nhìn nhận khác nhau các tác giả đã đưa ra những định nghĩa khác khá khoa học góp phần vào lý luận của kiểm tra, đánh giá. Tài liệu trong nước Cùng với nhiều học giả nước ngoài, các học giả, các nhà nghiên cứu giáo dục nước ta cũng tìm hiểu và nghiên cứu khá sâu sắc về vấn đề kiểm tra – đánh giá. Theo Hà Thế Ngữ - Đặng Vũ Hoạt trong cuốn giáo trình giáo dục học tập I nhà xuất bản giáo dục học 1987 đã đưa ra các quan niệm về kiểm tra – đánh giá như sau “Kiểm tra – đánh giá tri thức, kỹ năng, kỹ xảo của học sinh là một khâu quan trọng của quá trình dạy học. Xét theo các cách thức thực hiện hệ thống của các khâu quan trọng của quá trình dạy học. Kiểm tra – đánh giá có thể xem xét như là một nhóm phương pháp dạy học”. Đồng thời hai ông còn nêu rõ ý nghĩa của việc kiểm tra – đánh giá các mặt khác. Theo Đức Minh trong bài “Một số vấn đề lý luận về việc kiểm tra – đánh giá học sinh” trong tạp chí Nghiên cứu giáo dục số 36 – 1975. Ông quan niệm “Kiểm tra và đánh giá là những khâu tất yếu của mọi quá trình hoạt động xã hội và là hai mặt gắn bó mật thiết với nhau của một vấn đề xác định chất lượng của sản phẩm hoạt động. Bởi vậy, đó là việc làm rất cần thiết và có ý nghĩa xã hội quan trọng”. Trong bài viết này mặc dù tác giả chưa đưa ra định nghĩa riêng biệt về kiểm tra – đánh giá, nhưng thể hiện quan điểm đánh giá chỉ có thể thực hiện được khi có kiểm tra. Còn theo PTS. Trần Kiều - Viện khoa học giáo dục với bài “Đổi mới đánh giá, đòi hỏi bức thiết của đổi mới phương pháp dạy học”. Trong tạp chí Nghiên cứu giáo dục số 11 – 1995, ông cho rằng “Kiểm tra – đánh giá là khâu cuối cùng, song cũng có thể là bước khởi đầu cho chu trình tiếp 5 theo với chất lượng mới hơn của cả một quá trình. Từ một phương diện khác có thể xem đánh giá là hoạt động nhằm rút ra những phán đoán về giá trị đạt được và những quyết định cần thiết trên cơ sở thông tin về số liệu thu thập được. Do đó, đánh giá không chỉ nhằm mục đích phân loại, sàng lọc, cũng không chỉ nhằm phát hiên kết quả mà còn phải tìm ra được các nguyên nhân đa dạng của một thực trạng nào đó”. Theo Nguyễn Thị Côi, trong các công trình của mình đã đi sâu nghiên cứu về vấn đề kiểm tra – đánh giá kết quả học tập Lịch sử như chươnng XIII trong Giáo trình phương pháp dạy học Lịch sử - tập 2, Nxb ĐHSP 2002, “Tài liệu hội nghị đổi mới phương pháp giảng dạy và học tập môn Lịch sử ở trường phổ thông trung học tháng 4 năm 1999” và trong cuốn “Một số vấn đề Lịch sử” trường ĐHSP Hà Nội, Nxb ĐHQG – 2001. Trong các công trình kể trên, tác giả đã đề cập đến những vấn lý luận cơ bản của kiểm tra – đánh giá và gợi mở phương hướng đổi mới hoạt động này trong dạy học Lịch sử ở trường phổ thông. Theo tác giả “Nếu thực hiện tốt khâu kiểm tra – đánh giá sẽ góp phần nâng cao chất lượng dạy học bộ môn”. Nhìn chung, các nhà giáo dục học đều thống nhất kiểm tra – đánh giá là một khâu quan trọng không thể thiếu được trong quá trình dạy hoc, nó là một yếu tố cần phải được chú ý khi đổi mới phương pháo dạy học vì kiểm tra, đánh giá có vị trí, ý nghĩa lớn đối với việc giáo dưỡng, giáo dục và phát triển. Ngoài ra, vấn đề kiểm tra – đánh giá cũng được các học viên, sinh viên tìm hiểu và nghiên cứu về mặt lý luận và thực tiễn của vấn đề này qua một số luận văn. Tuy nhiên, trong các công trình đó vẫn nằm trong phạm vi nhỏ mang tính lý thuyết, chưa đề cập tới việc đổi mới việc kiểm tra – đánh giá kết quả học tập của học sinh trong dạy học Lịch sử ở trường trung học phổ thông. 6 Tóm lại, vấn đề kiểm tra – đánh giá đã được nhiều nhà giáo dục và giáo dục Lịch sử ở trong và ngoài nước đề cập tới nhiều mức độ khác nhau. Song đều làm sáng tỏ Vai trò, vị trí của kiểm tra – đán giá, nội dung của kiểm tra – đánh giá, mối quan hệ mật thiết giữa kiểm tra – đánh giá…và xem đó là khâu không thể thiếu trong quá trình dạy học. Những lý luận trên là cơ sở quý báu giúp chúng tôi thực hiện đề tài. Qua tìm hiểu và nghiên cứu lịch sử vấn đề, tôi thấy có những ý kiến sau Hầu hết những công trình nghiên cứu của các nhà nghiên cứu trong và ngoài nước đều nêu lên được những vấn đề lí luận quan trọng của việc kiểm tra, đánh giá nói chung và tự kiểm tra, đánh giá trong học tập Lịch sử của học sinh nói riêng. Tuy nhiên, đó mới chỉ là những lí luận chung, những lí luận cơ sở và nền tảng, còn những biện pháp cụ thể thì chưa thực sự được nghiên cứu, đi sâu tìm hiểu một cách cụ thể, nhằm biến những vấn đề lí luận đó gắn bó, phục vụ hiệu quả hơn công tác dạy học Lịch sử hiện nay ở các trường phổ thông. Vì vậy, “cái mới” của đề tài không phải nhằm đi sâu nghiên cứu lại những lí luận đã có ở phần trên, mà quan trọng hơn là trên cơ sở nền tảng lí luận sẵn có, người viết muốn hiện thực hoá những lí luận đó trở thành những biện pháp sư phạm cụ thể. Những biện pháp này sẽ được áp dụng trong một bài, một chương trình của một lớp học cụ thể thông qua phương pháp quan sát và thực nghiệm là chủ yếu để nhằm giúp cho giáo viên có được những gợi ý về phương pháp hướng dẫn học sinh tự kiểm tra, kiểm tra, đánh giá, giúp hình thành ở học sinh kĩ năng tự kiểm tra, đánh giá trong học tập bộ môn nói riêng và các môn học khác nói chung. Qua đó để khẳng định rằng những vấn đề lí luận trên là đúng đắn, khoa học và những biện pháp, cách thức tổ chức, hướng dẫn trên của giáo viên cho học sinh trong hoạt động tự kiểm tra, đánh giá một cách thường xuyên trong học tập Lịch sử được đề xuất trong đề tài vừa có giá trị lí luận, 7 vừa có giá trị thực tiễn cao nhằm góp phần nâng cao chất lượng dạy học bộ môn và thực hiện mục tiêu đổi mới trong giáo dục hiện nay. 3. ĐỐI TƯỢNG VÀ PHẠM VI NGHIÊN CỨU CỦA ĐỀ TÀI Đối tượng nghiên cứu chính của đề tài là những hướng dẫn của giáo viên bằng những biện pháp cụ thể giúp cho học sinh tự kiểm tra, đánh giá một cách thường xuyên quá trình học tập môn Lịch sử của mình ở trường phổ thông, mà cụ thể ở đây là học sinh lớp 10 với phần kiến thức Lịch sử thế giới. Như vậy, đối tượng nghiên cứu của đề tài có những khác biệt so với những công trình nghiên cứu trước đó – chủ yếu là những quan niệm, vai trò, ý nghĩa, cách thức tổ chức kiểm tra, đánh giá nói chung trong dạy học Lịch sử theo phương hướng đổi mới giáo dục hiện nay. Đối tượng nghiên cứu của đề tài có thể nói là một phần nhỏ trong vấn đề lớn – vấn đề kiểm tra, đánh giá. Tuy nhiên, với đối tượng nghiên cứu như trên, cho phép đề tài đi sâu vào những biện pháp cụ thể trong việc hướng dẫn học sinh tự kiểm tra, đánh giá trong học tập lịch sử. Đây có thể nói là một nội dung quan trọng trong phương hướng đổi mới giáo dục hiện nay, nhằm phát huy tính tích cực, chủ động của người học trên cơ sở những điều khiển, hướng dẫn của giáo viên. 4. MỤC ĐÍCH VÀ NHIỆM VỤ CỦA ĐỀ TÀI Mục đích Mục đích nghiên cứu của đề tài là đề xuất những biện pháp nhằm hướng dẫn cho học sinh tiến hành tự kiểm tra, đánh giá trong học tập Lịch sử. Xuất phát từ những mục đích trên, phạm vi nghiên cứu chủ yếu của đề tài là khối học sinh ở các trường phổ thông, cụ thể ở đây là học sinh lớp 10 trong phần học Lịch sử thế giới. Lí do mà tôi chọn phạm vi nghiên cứu là học sinh lớp 10, bởi đây là giai đoạn đầu tiên của giáo dục phổ thông, vì vậy hướng dẫn các em kĩ năng tự kiểm tra, đánh giá trong học tập ở giai đoạn này rất quan trọng, là cơ sở cho các em học tập ở những giai đoạn tiếp theo. Phần kiến thức mà tôi lựa chọn là phần Lịch sử thế giới trong sách giái khoa lớp 10 chương trình chuẩn. Đây cũng là một mảng kiến thức quan trọng và đặc biệt đây là những kiến thức rất trừu tượng nên học sinh 8 rất khó nắm bắt, chưa kể đến việc tự học, tự kiểm tra, đánh giá việc học tập của học sinh. Chính vì lí do đó, mà cần những biện pháp hướng dẫn rất cụ thể của giáo viên, giúp cho học sinh tự kiểm tra, đánh giá việc học tập của mình đạt hiệu quả cao, nhằm nâng cao chất lượng dạy học bộ môn và phát huy năng lực tự học trong học tập của học sinh. Nhiệm vụ Để đạt được mục đích trên, đề tài phải giải quyết các nhiệm vụ sau - Tìm hỉểu lý luận về kiểm tra – đánh giá và tự kiểm tra – đánh giá về khái niệm, nội dung, yêu cầu, ý nghĩa, biện pháp và các hình thức kiểm tra – đánh giá và tự kiểm tra – đánh giá của học sinh. - Khai thác và nghiên cứu nội dung lịch sử thế giới lớp 10 chương trình chuẩn ở trường trung học phổ thông. - Điều tra, quan sát thực tế dạy học Lịch sử ở trường phổ thông. - Đề xuất biện pháp hướng dẫn học sinh tự kiểm tra – đánh giá trong học tập Lịch sử thế giới lớp 10 ở trường phổ thông. - Tiến hành khảo sát và thực nghiệm sư phạm để khẳng định tính khả thi của đề tài nghiên cứu. 5. CƠ SỞ PHƯƠNG PHÁP LUẬN VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU Cơ sở lý luận Đề tài được thực hiên trên cơ sở lý luận của chủ nghĩa Mác – Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, đường lối của Đảng về giáo dục và những vấn đề liên quan đến lý luận dạy học, Sử học, phương pháp dạy học Lịch sử và các tài liệu liên quan đến kiểm tra – đánh giá kết quả học tập của học sinh. Phương pháp nghiên cứu Nghiên cứu lý thuyết Nghiên cứu các tác phẩm của các tác giả kinh điển, chủ nghĩa Mác – Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh bàn về giáo dục. Nghiên cứu các văn bản, nghị quyết của Đảng và Nhà nước, Bộ giáo dục và đào tạo liên quan đến đề tài. 9 Nghiên cứu các công trình của các nhà khoa học giáo dục, giáo dục Lịch sử viết về kiểm tra – đánh giá có liên quan đến đề tài. Nghiên cứu nội dung chương trình sách giáo khoa Lịch sử lớp 10 – THPT. Sử dụng phương pháp quan sát và thực nghiệm sư phạm Nghiên cứu, điều tra, khảo sát tình hình thực tiễn công tác kiểm tra – đánh giá kết quả học tập Lịch sử để thấy được thực tiễn của công tác kiểm tra, đánh giá ở trường phổ thông hiện nay. Tiến hành thực nghiệm sư phạm để đánh giá tính khả thi của việc sử dụng các phương pháp hướng dẫn học sinh tiến hành tự kiểm tra – đánh giá kết quả học tập phần Lịch sử thế giới của học sinh lớp 10 ở trường trung học phổ thông. 6. Ý NGHĨA CỦA LUẬN VĂN Ý nghĩa khoa học Kết quả nghiên cứu của đề tài góp phần là phong phú thêm về mặt lý luận cũng như thực tiễn của việc kiểm tra – đánh giá nói chung và tự kiểm tra – đánh giá nói riênng, khẳng định tầm quan trọng của việc kiểm tra – đánh giá kết quả học tập của học sinh trong dạy học Lịch sử. Đồng thời, đề xuất một số biện pháp nhằm hướng dẫn học sinh tiến hành tự kiểm tra – đánh giá kết quả học tập phần Lịch sử thế giới lớp 10 trong trường trung học phổ thông, giúp cho các em chuẩn bị tư thế tốt trước khi bước vào kì thi, qua đó nhằm nâng cao chất lượng dạy học nói chung và dạy học Lịch sử nói riêng. Ý nghĩa thực tiễn Một số biện pháp nhằm hướng dẫn học sinh tự kiểm tra – đánh gia kết quả học tập phần Lịch sử thế giới lớp 10 ở trường trung học phổ thông đưa ra trong luận văn sẽ giúp bản thân và đồng nghiệp vận dụng vào quá trình dạy học Lịch sử chung để nâng cao chất lượng dạy học bộ môn. Đồng thời, cung cấp cho học sinh những biện pháp tự học có hiệu quả thông qua việc tự kiểm tra, đánh giá kết quả học tập bộ môn Lịch sử Thế giới lớp 10 nói riêng và tiến tới hình thành năng lực và phương pháp tự học trong học tập nói chung. 10 [...]... động kiểm tra – đánh giá và làm sáng tỏ thực trạng của việc kiểm tra – đánh giá trong việc học tập Lịch sử ở trường phổ thông hiện nay Đề xuất các biện pháp hướng dẫn học sinh tiến hành tự kiểm tra – đánh giá trong học tập Lịch sử thế giới lớp 10 nhằm nâng cao chất lượng dạy học đối với bộ môn Lịch sử và đồng thời hình thành, phát triển năng lực tự học cho học sinh trong việc học tập ở trường trung học. .. học phổ thông 8 CẤU TRÚC CỦA LUẬN VĂN Ngoài Phần mở đầu, kết luận, các phụ lục, mục lục, tài liệu tham khảo, nội dung luận văn gồm hai chương Chương I Vấn đề kiểm tra – đánh giá kết quả học tập của học sinh trong dạy học Lịch sử ở trường trung học phổ thông Chương II Một số biện pháp giúp học sinh tiến hành tự kiểm tra, đánh giá trong học tập Lịch sử thế giới lớp 10 chương trình chuẩn ở trường Trung. .. động Hơn nữa, vai trò của việc tự kiểm tra, đánh giá của người học trong quá trình học tập cũng có tầm quan trọng như sự kiểm tra, đánh giá của thầy, cô đối với quá trình nhận thức của học sinh Tuy nhiên, sự khác biệt quan trọng ở đây là quá trình tự kiểm tra, đánh giá của học sinh trong quá trình học tập mang tính chủ động, giống như quá trình tự học, tự giác của học sinh trong việc tiếp thu kiến thức... đề kiểm tra, đánh giá của giáo viên và tự kiểm tra, đánh giá của học sinh trong dạy và học Trong thực tế, ở các trường phổ thông, phần lớn các giáo viên đều nhận thấy được tầm quan trọng của vấn đề kiểm tra, đánh giá và tự kiểm tra, đánh giá của học sinh vì vậy cũng ít nhiều đã có sự cải tiến nội dung kiểm tra – đánh giá, áp dụng thêm các hình thức kiểm tra hiện có bên cạnh kiểm tra truyền thống là tự. .. ở trường Trung học phổ thông 11 B PHẦN NỘI DUNG CHƯƠNG I VẤN ĐỀ HƯỚNG DẪN HỌC SINH TỰ KIỂM TRA, ĐÁNH GÍA KẾT QUẢ HỌC TẬP TRONG DẠY HỌC LỊCH SỬ Ở TRƯỜNG THPT I CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN CỦA VẤN ĐỀ 1 Cở sở xuất phát Mục tiêu của bộ môn Lịch sử Trong các môn học ở trường phổ thông, bộ môn Lịch sử có vị trí, ý nghĩa quan trọng, nó góp phần cùng các môn học khác góp phần “…giúp học sinh phát triển... để nâng cao chất lượng dạy học Kiểm tra – đánh giá nó không phải chỉ là công việc của giáo viên mà của cả học sinh Giáo viên kiểm tra – đánh giá kết quả học tập của học sinh Học sinh tự kiểm tra – đánh giá kết quả học tập của mình và kiểm tra – đánh giá lẫn nhau Kiểm tra là công việc trong đó diễn ra trong đó diễn ra quá trình tác động của người kiểm tra làm cho học sinh tự bộc lộ rõ khả năng của mình... lên lớp vì qúa trình đánh giá cung cấp cơ sở cho sự phán xét về giá trị Sự phán xét này cho phép giáo viên ra được những quyết định sư phạm tốt nhất Việc kiểm tra, đánh giá và tự kiểm tra, đánh giá của học sinh sẽ cung cấp cho giáo viên những thông tin “liên hệ ngược ngoài”, giúp cho người dạy nắm bắt được hoạt động dạy của mình Kiểm tra, đánh giá của giáo viên cùng với tự kiểm tra, đánh giá của học sinh. .. kiểm tra – đánh giá kết quả học tập của học sinh toàn diện về kiến thức, kết quả giáo dục và phát triển Đặc điểm nhận thức của học sinh trong học tập Lịch sử Quá trình nhận thức của học sinh cũng như quá trình nhận thức của nhà khoa học hay quá trình nhận thức có tính chất xã hội lịch sử cuar loài người, là quá trình phản ánh thế giới khách quan vào ý thức học sinh Quá trình nhận thức của học sinh. .. thức đó thành của bản thân mình trạng vấn đề hướng dẫn học sinh tự kiểm tra – đánh giá kết quả học tập ở trường THPT hiện nay Đối với giáo viên *Quan niệm Vấn đề kiểm tra – đánh giá và tự kiểm tra, đánh giá kết quả học tập của học sinh từ lâu đã được các nhà lý luận dạy học, các giáo viên phổ thông quan tâm, chú ý Họ đều thừa nhận rằng một trong những biện pháp quan trọng để nâng cao chất... giáo dục tư tưởng, đạo đức, phẩm chất của học sinh Nó hình thành ở học sinh lòng tự tin, ý chí quyết tâm đạt kết quả cao trong học tập, lòng trung thực, tinh thần tập thể, ý thức giúp đỡ lẫn nhau trong học tập Giúp học sinh có lòng tin vào khả năng của mình, giáo dục cho học sinh tính trung thực và tính tự giác trong học tập, khắc phục tính chủ quan, tự mãn, ỷ lại tạo ra tâm thế động lực tích cực ở . dạy học Lịch sử ở trường phổ thông. - Đề xuất biện pháp hướng dẫn học sinh tự kiểm tra – đánh giá trong học tập Lịch sử thế giới lớp 10 ở trường phổ thông. . dạy học. Vì vậy, tôi mạnh dạn lựa chọn đề tài Hướng dẫn học sinh tự kiểm tra, đánh giá trong học tập lịch sử thế giới lớp 10 chương trình chuẩn ở trường - Xem thêm -Xem thêm Hướng dẫn học sinh tự kiểm tra, đánh giá trong học tập lịch sử thế giới lớp 10 chương trình chuẩn ở trường Trung học phổ thông, Hướng dẫn học sinh tự kiểm tra, đánh giá trong học tập lịch sử thế giới lớp 10 chương trình chuẩn ở trường Trung học phổ thông, , Tài liệu nước ngoài., Tài liệu trong nước, ĐỐI TƯỢNG VÀ PHẠM VI NGHIÊN CỨU CỦA ĐỀ TÀI MỤC ĐÍCH VÀ NHIỆM VỤ CỦA ĐỀ TÀI 1. Mục đích, Đặc trưng của bộ môn Lịch sử ở trường phổ thông, Đặc điểm nhận thức của học sinh trong học tập Lịch sử, Đối với giáo viên Quan niệm, Đối với học sinh Quan niệm, Mục đích của kiểm tra – đánh giá và tự kiểm tra, đánh giá Chức năng của kiểm tra – đánh giá và tự kiểm tra, đánh giá, Đối với giáo viên, Ý NGHĨA CỦA LUẬN VĂN ĐÓNG GÓP CỦA LUẬN VĂN Mục tiêu, Biện pháp giúp học sinh tái hiện những điều đã học, Làm các bài tập do giáo viên yêu cầu, Nguyên tắc Phương pháp Thời gian thực nghiệm Đối tượng thực nghiệm Bài học được chọn biên soạn đề bài thực nghiệm Hướng dẫn thực nghiệm Phương pháp đánh giá kết quả thực nghiệm, Kết quả thực nghiệm Lượt xem 296 Qua sáng kiến kinh nghiệm này tôi muốn giới thiệu một số phương pháp để giúp học sinh học tốt môn Lích sử 1. Giúp các em tìm tài liệu tham khảo2. Hướng dẫn các em tự học ở nhà3. Hướng dẫn học sinh tự học trên lớp4. Ứng dụng công nghệ thông tin giúp các em tự học 5. Hướng dẫn học sinh tự học thông qua tiết hoạt động ngoại khóa6. Hướng dẫn học sinh tự học qua phần củng cố bài8. Hướng dẫn học sinh tự học qua tiết làm bài tập 9. Phối hợp giáo dục nhà trường và gia đìnhTrẻ em muốn phát triển tốt cần có sự kết hợp của 3 yếu tố “Gia đình – Nhà trường– xã hội”, trong đó yếu tố gia đình là quan trọng nhất “gia đình là tế bào của xã hội” mỗi gia đình tốt sẽ tạo tâm lí tốt cho đứa trẻ khi đến trường , khi ra ngoài xã hội . Vì vậy muốn học sinh học tập tốt trước hết giáo viên cần lưu ý phối hợp tốt giữa giáo dục nhà trường và gia đình để việc tự học của các em có kết quả, cần kết hợp chặt chẽ giữa giáo viên bộ môn với giáo viên chủ nhiệm, kịp thời thông báo việc học tập của học sinh cho phụ huynh nắm để phụ huynh theo dõi, uốn nắn, phụ huynh chuẩn bị đầy đủ sách vở, tài liệu học tập, tạo thời gian cho các em học tập. Giáo viên cần nắm được tâm tư nguyện vọng của học sinh cũng như gia đình các em . Cần tìm hiểu kĩ càng hoàn cảnh gia đình của mỗi học sinh, để từ đó có biện pháp tốt nhất trong giáo dục các em . Đối với những học sinh có hoàn cảnh gia đình đặc biệt giáo viên cần quan tâm nhiều hơn, động viên nhắc nhở kịp thời , thường xuyên liên lạc với phụ huynh để kịp thời uốn nắn các em khi có biểu hiện lơ là, ham chơi, chểnh mảng việc học hành . Có kết hợp như vậy thì việc học của học sinh mới thêm các bài viết khác tại đây 1. Giúp các em tìm tài liệu tham khảo Khi học sinh mới bước vào cấp II còn lạ lẫm với thầy cô mới, phương pháp học tập mới . Các em không còn được học tất cả bộ môn bởi một thầy cô mà thay vào đó là mỗi thầy cô phụ trách một bộ môn nhất định . Mỗi thầy cô có cách giảng dạy riêng, mỗi bộ môn có đặc thù riêng . Vì vậy các em chưa thích ứng ngay được, để giúp các em có thể nhanh chóng hòa nhập, phát huy tốt nhất khả năng của các em đối với môn lịch sử tôi đã hướng dẫn các em tìm các tài liệu như Tài liệu thành văn Tài liệu tranh, ảnh Tài liệu văn học dân gian Các thuật ngữ, khái niệm lịch sử trong chương trình lớp 6 Ví dụ “bộ lạc”, “di chỉ”….Một số thuật ngữ trong sách giáo khoa lớp 6 đã có giải thích nhưng cũng có một số thuật ngữ trong sách giáo khoa không có các em phải tự tìm hiểu ở các tài liệu khác . Tài liệu nhân vật hay đồ phục chế . Như trống đồng, công cụ đồ đá. Tài liệu trực quan quy ước gồm các loại bản đồ, đồ thị . Tôi đã thông báo cho các em chuẩn bị đầy đủ sách giáo khoa, sách bài tập và sách tham khảo . Để khơi dậy lòng ham học, ham hiểu biết của học sinh . Để học sinh có tài liệu tham khảo, tôi đã hướng dẫn cho các em tìm hiểu sách, báo hướng dẫn các em đến thư viện của nhà trường để mượn tài liệu trường THCS Trần Hưng Đạo đã có thư viện riêng và sách vở, tài liệu tham khảo cũng tương đối đầy đủ và có một phương tiện rất tiện dụng là mạng In tơ nét . Các em đã được tiếp xúc với môn tin học và các em có khả năng tự lên mạng để tìm hiểu thông tin . Để khắc phục tình trạng tự học không có kết quả, giáo viên phải hiểu tâm lí học sinh, vì các em vừa chuyển qua phương pháp học mới như mỗi môn một cô dạy riêng . Vì vậy giáo viên phải làm sao gây hứng thú cho học sinh học tập, tạo ra mục đích, động cơ học tập tiến bộ. Giáo viên, trước hết phải là người gợi mở, dẫn dắt và phải tạo được sự hứng thú trong việc tiếp thu kiến thức của học sinh. Với một cô giáo nổi tiếng nghiêm khắc, hay la mắng các em khi các em không đạt yêu cầu thì đương nhiên khó có thể tạo hứng thú học tập cho các em, mà thay vào đó chỉ là tâm lý sợ sai mà các em luôn phải duy trì trong suốt giờ học. Một số giáo viên vì nhiều lí do khác nhau mà giảng dạy mãi một giáo án cũ đã sử dụng đi sử dụng lại qua nhiều năm học không dành thời gian đầu tư cho giáo án khiến tiết dạy hết sức nhàm chán . Vậy thì thay vì giảng dạy theo tuần tự bình thường, giáo viên có thể biến tiết học thành một vở kịch, một trò chơi với những hình ảnh, tình huống sống động, khiến học sinh quên cả giờ ra chơi . 2. Hướng dẫn các em tự học ở nhà Các em cần nắm được những kiến thức cơ bản trong sách giáo khoa. Kiến thức cơ bản là yếu tố tối ưu cần thiết cho sự hiểu biết của học sinh về lịch sử thế giới và lịch sử dân tộc. Những kiến thức cơ bản đủ phác họa nên bức tranh quá khứ một cách chân thật. Giáo viên cần hướng dẫn học sinh cách tự học, tự nắm bắt kiến thức, phân biệt được lịch sử cụ thể từng thời kì, phản ánh được quy luật phát triển của xã hội . Hoạt động học tập đòi hỏi các em phải tự giác, tích cực và độc lập “không ai có thể học thay mình”, phải chủ động lĩnh hội kiến thức. Sau khi nắm được những kiến thức cơ bản thì các em cần đọc thêm tài liệu liên quan để mở rộng vấn đề. Khi học các em phải thật tập trung để nhớ bài học, không tập trung quá nhiều thời gian cho một môn học. Khi học bài nhớ theo trình tự “logic” . Ví dụ Khi trình bày cuộc khởi nghĩa Phải trình bày hoàn cảnh, nguyên nhân, diễn biến, kết quả, ý nghĩa lịch sử, bài học kinh nghiệm. Nhắc nhở các em khi học phải lưu ý các mốc thời gian ví như khi học khởi nghĩa Hai Bà Trưng Thời gian dựng cờ khởi nghĩa là năm 40, thì thời gian kết thúc khởi nghĩa phải là từ năm 40 trở về sau, chứ không phải là thời gian trước đó. Đọc những mẫu chuyện về tấm gương anh hùng liệt sĩ trong công cuộc dựng nước và giữ nước, kể cho em hoặc bạn bè, người thân nghe về chuyện lịch sử để nhớ kiến thức như Sơn Tinh, Thủy Tinh; Thánh Gióng; Tô Vĩnh Diện; Phan Đình Giót ; An Dương Vương với truyền thuyết nỏ thần…Đọc lịch sử Việt Nam bằng tranh. Xem bài mới trước khi đến lớp, trả lời ngắn gọn những câu hỏi ở sau mỗi mục của bài. Khi tìm hiểu bài mới nên tham khảo sách Hướng dẫn trả lời câu hỏi và bài tập lịch sử 6 – Nhà xuất bản đại học quốc gia hà nội để tham khảo thêm, các em có thể mượn ngay tại thư viện nhà trường . Giáo viên nên hướng dẫn học sinh chỉ nên coi đó là tài liệu tham khảo, cần suy nghĩ và trả lời trước rồi mới lấy sách ra tìm hiểu thêm nếu quá ỷ lại vào sách sẽ dẫn đến tình trạng lười suy nghĩ ở các em . Làm bài tập về nhà Mỗi học sinh chuẩn bị một sách bài tập lịch sử 6, không làm đáp án lên sách bài tập ngay mà làm vào giấy nháp Ví dụ bài tập trắc nghiệm chọn đáp án A, nhưng thấy chưa chắc chắn thì ghi vào vở nháp, khi làm bài chỗ nào chưa nhớ, không rõ thì xem lại sách giáo khoa, biết chắc chắn đúng mới ghi đáp án vào sách bài tập, còn nếu là câu hỏi so sánh thì so sánh nháp sau đó mới ghi vào vở bài tập. Đồng thời rèn luyện cho mình trí nhớ để khi làm bài thi tự tin hơn. Mỗi học sinh cần chuẩn bị một cuốn sổ tay cá nhân để viết những sự kiện đáng nhớ vào sổ, tiện cho việc nhớ sự kiện. Ví như Học đến bài 3 Xã hội nguyên thủy . Học sinh có thể ghi một số mốc quan trọng như Người tối cổ – Cách ngày nay khoảng 3-4 triệu năm . Người tinh khôn – Cách đây khoảng 4 vạn năm . Học đến phần Nước Văn Lang – Âu lạc . Học sinh có thể ghi lại một số kiến thức đáng nhớ Hùng Vương lên ngôi vua đặt tên nước là Văn Lang đóng đô ở Bạch Hạc Việt Trì – Phú Thọ . Tướng văn là Lạc Hầu – Tướng võ là Lạc Tướng đứng đầu bộ , Bồ chính đứng đầu Chiềng chạ . Thục Phán lên ngôi vua xưng là An Dương Vương đóng đô ở Phong khê nay là vùng Đông Anh – Hà Nội . An Dương Vương cho xây thành Cổ Loa ở đây, thành Cổ Loa còn được coi là “quân thành” . …Đây là những kiến thức cơ bản đáng nhớ với cách ghi chép vắn tắt như vậy học sinh có thể ghi nhớ những kiến thức cơ bản quan trọng , khi cần thiết có thể lấy ra xem lại hoặc khi gặp các câu hỏi như “Nêu những điểm giống nhau và khác nhau của nhà nước Văn Lang và nhà nước Âu Lạc ?” thì học sinh dễ hệ thống hóa kiến thức để trả lời . Khi các em thắc mắc về sự kiện, hiện tượng lịch sử cần giải quyết gấp thì điện thoại 1080 để được hỗ trợ, hoặc các em có thể vào truy cập ở trên mạng Internet… Đối với học sinh trung học cơ sở , không có nhiều điều kiện để các em có thể đi thực tế, bảo tàng…Do đó, việc sử dụng Internet để phục vụ cho việc học tập nói chung và việc học tập lịch sử nói riêng là rất cần thiết. Ngày nay công nghệ thông tin đã rất phổ biến học sinh ở cấp trung học cơ sở cũng đã có thể tự tìm hiểu được thông tin trên mạng. Nhưng muốn khai thác tốt thông tin trên mạng thì đòi hỏi giáo viên phải có sự định hướng và từng bước rèn luyện cho các em kĩ năng khai thác tài liệu từ phương tiện hiện đại này. Khác với giáo viên Tin học, giáo viên Lịch sử không thể trực tiếp chỉ dạy các em những thao tác trên máy mà thông qua việc dạy học bộ môn để rèn luyện kĩ năng cho học sinh để các em tự hoàn thành tốt nhiệm vụ học tập của chính mình. Muốn vậy, giáo viên có thể hướng dẫn các em khai thác thông tin trên mạng để từng bước rèn luyện kĩ năng cho học sinh. Để rèn luyện cho học sinh kĩ năng tự học qua việc khai thác tài liệu trên mạng internet được hiệu quả, đỡ mất thời gian tìm kiếm, giáo viên có thể cung cấp cho học sinh những địa chỉ như sau http//www. trang công cụ tìm kiếm phổ biến nhất http//www. trang công cụ tìm kiếm Bách khoa toàn thư trang web của BGD-ĐT http//www. trang công cụ tìm kiếm video clip Bên cạnh đó để định hướng cho học sinh khai thác những thông tin đáng tin cậy, độ xác thực cao, không bị xuyên tạc, giáo viên phải hướng dẫn nên truy cập vào những trang web có kí hiệu đuôi edu, org, vn, gov…. Ngoài ra giáo viên có thể tổ chức và hướng dẫn học sinh giải các bài tập, câu hỏi trong sách giáo khoa . Đây là một hình thức làm bài tập chủ yếu trong tự học ở nhà của học sinh. Bởi các bài tập, câu hỏi trong sách giáo khoa chính là sự định hướng cho học sinh những kiến thức cơ bản mà học sinh cần nắm trong mỗi mục, mỗi bài hay mỗi chương . Hơn nữa, trong sách giáo khoa hiện nay, các bài tập không chỉ đơn thuần là các câu hỏi mang tính chất kiểm tra kiến thức mà chủ yếu là các bài tập đòi hỏi tính tư duy, sáng tạo của học sinh . Hoàn thành được các bài tập trong sách giáo khoa có nghĩa là các em đã lĩnh hội được những kiến thức cơ bản mà yêu cầu bài học đặt ra . Tuy nhiên, cái quan trọng là giáo viên cần hướng dẫn cho học sinh để các em có thể tự làm bài tập ở nhà một cách có chất lượng . Cụ thể giáo viên có thể tổ chức và hướng dẫn học sinh làm bài tập trong sách giáo khoa lịch sử khi tự học ở nhà theo trình tự sau – Giáo viên hướng dẫn học sinh đọc và nắm được nội dung cốt yếu của bài học trong sách giáo khoa . – Đọc và giải thích các tranh ảnh , sơ đồ , hình vẽ , bản đồ …trong sách giáo khoa . – Đối chiếu nội dung trong sách giáo khoa với nội dung bài giảng của giáo viên. – Sau đó mới trả lời các câu hỏi , bài tập . Học sinh trong quá trình tự học, thực hiện được các công việc trên sẽ khắc phục được tình trạng chỉ học thuộc hay chép lại sách giáo khoa và bài giảng của thầy cũng như tính thụ động, mất tự tin, thiếu sáng tạo trong học tập . Tổ chức và hướng dẫn học sinh làm một số bài tập do giáo viên đưa ra . Sau mỗi giờ lên lớp, nhằm giúp học sinh nắm vững được hệ thống kiến thức trong một bài hay trong một số bài hoặc một chương và rèn luyện kĩ năng tự học, tùy theo nội dung cũng như điều kiện học tập cụ thể , giáo viên có thể ra thêm một số câu hỏi và bài tập để học sinh tự làm ở nhà số lượng bài tập, nội dung phải phù hợp với yêu cầu và trình độ của việc học tập . Bài tập ra về nhà chủ yếu là các loại bài tập nhận thức hoặc bài tập rèn kĩ năng thực hành Những câu hỏi, bài tập về nhà mà giáo viên ra thêm sau mỗi tiết học phải đảm bảo tính cơ bản về kiến thức, vừa sức và đặc biệt là phải chứa tính hấp dẫn, thu hút sự tích cực tìm hiểu, khám phá của học sinh. Bài tập đó phải tạo ra được sự nỗ lực trong bản thân các em . Và chủ yếu bài tập ra về nhà là những bài tập có tính phức tạp, đòi hỏi các em tư duy cao, do đó giáo viên phải hướng dẫn, và nếu được giáo viên hướng dẫn học sinh sẽ suy nghĩ và hoàn thành tốt, từ đó trình độ nhận thức của các em được nâng cao . Giáo viên không chỉ thường xuyên ra bài tập về nhà để nâng cao khả năng tự học của học sinh mà còn phải thường xuyên kiểm tra, đánh giá kết quả làm bài tập ở nhà cho học sinh . Vì vậy giáo viên cần yêu cầu học sinh phải có vở bài tập, kiểm tra xem các em có làm bài hay không , kết quả đạt được ra sao và nhận xét đánh giá, cho điểm nhằm khuyến khích động viên kịp thời . Với các loại bài tập như vậy yêu cầu học sinh phải động não, tư duy, suy nghĩ, tự tìm tòi thêm các tài liệu khác để hoàn thành yêu cầu như vậy có tác dụng rất to lớn trong việc hướng dẫn các em tự học ở nhà . 3. Hướng dẫn học sinh tự học trên lớp Tự học theo nhóm Với hình thức này học sinh được lôi cuốn vào hoạt động học tập, tiếp thu kiến thức bằng chính khả năng của mình với sự tổ chức hướng dẫn của giáo viên. Học sinh tự học theo nhóm sẽ phát huy tính tích cực của học sinh mà tinh thần cơ bản là tập trung vào học sinh, giáo viên chỉ là người tổ chức hướng dẫn, tạo cơ hội để các em tham gia tích cực, chủ động trong quá trình học tập. Việc trước tiên giáo viên phải làm là biết cách chia nhóm, tạo kiểu nhóm, mỗi nhóm 2- 6 em , các nhóm có thể chia ngẫu nhiên hoặc chủ định, thay đổi trong từng phần của tiết học, được giao thảo luận cùng nhiệm vụ hoặc khác nhiệm vụ, các em có cơ hội để thể hiện ý kiến của nhóm mình . Và cùng với đó là ý kiến của cá nhân mình . Để nâng cao tính tích cực trong thảo luận nhóm giáo viên nên có sự điều khiển sao để tất cả các thành viên trong một nhóm có thể được trình bày ý kiến không phải chỉ nhóm trưởng mới là người trình bày ý kiến . Ví như Thay vì gọi nhóm trưởng lên trình bày ý kiến thì ai dơ tay nhanh nhất trong nhóm sẽ được trả lời trước ai trả lời nhanh nhất, đúng nhất sẽ được ghi điểm cao nhất rồi ai nhanh thứ hai , đúng thứ hai sẽ được điểm cao thứ nhì … Giáo viên có thể sử dụng một số phương pháp làm việc nhóm tích cực phù hợp với học sinh vùng khó như vùng của chúng ta , đó là sử dụng kĩ thuật khăn trải bàn để làm việc nhóm … Khi hoạt động nhóm các thành viên cần Tập trung vào nhiệm vụ của nhóm mình, từng thành viên sẵn sàng đưa ra ý kiến của mình, trao đổi, thảo luận để có ý kiến thống nhất ngoài việc chú tâm vào làm nhiệm vụ của nhóm mình còn cần chăm chú nghe nhóm khác phát biểu, sau đó nhận xét câu trả lời của nhóm bạn, nhóm nào nhận xét đúng sẽ được ghi điểm cộng 1điểm + hoặc 2 điểm + để khuyến khích . Bằng cách học này học sinh được hấp dẫn, lôi cuốn vào hoạt động học tập, thu lượm kiến thức bằng chính khả năng của mình dưới sự hướng dẫn của giáo viên. Tự học trên lớp bằng cách giải quyết vấn đề mà giáo viên nêu ra Giáo viên nêu vấn đề và điều khiển hoạt động của học sinh nhằm tự lực giải quyết những vấn đề học tập, việc này đòi hỏi học sinh phải tập trung lắng nghe, theo dõi vấn đề mà giáo viên đưa ra để tiến hành hoạt động trí tuệ, tự lĩnh hội kiến thức nhờ vậy mà đảm bảo tính vững chắc của tri thức, học sinh tự suy nghĩ sáng tạo, có những kiến thức không có sẵn trong sách giáo khoa đòi hỏi học sinh phải liên tưởng, suy luận. Ví dụ Để giải thích câu hỏi Tại sao thì học sinh cần động não và trả lời Khi dạy phần “Đời sống vật chất của cư dân Văn Lang”Bài 13 – lịch sử 6, có thể tạo tình huống có vấn đề bằng cách nêu câu hỏi “Trong cuộc sống hàng ngày, cư dân Văn Lang ăn mặc và đi lại như thế nào? Hãy suy nghĩ xem cuộc sống đó có gì độc đáo?”. Phần này không có sẵn đáp án trong sách giáo khoa mà học sinh tự tìm tòi, suy nghĩ, sáng tạo để trả lời. Hoặc giáo viên có thể yêu cầu học sinh đặt mình vào một nhân vật lịch sử nào đó và yêu cầu học sinh nếu em là nhân vật thì em sẽ làm gì ? Ví dụ Khi dạy xong bài Nước Âu Lạc giáo viên có thể hỏi học sinh “ Khi Triệu Đà xin hòa gả Trọng Thủy cho Mị Châu , Trọng Thủy đến Âu Lạc ở rể…” Giáo viên yêu cầu học sinh dựa vào kiến thức lịch sử và truyền thuyết hỏi học sinh trước tình hình như vậy “ Nếu em là An Dương Vương em sẽ làm gì …?” Trước tình huống như vậy giáo viên có thể tổ chức cho các em thảo luận nhóm , hoặc học sinh làm việc cá nhân, giáo viên nên để cho học sinh tự do trình bày suy nghĩ của mình và có thể để các học sinh khác trong lớp đưa ra ý kiến phản đối hoặc đồng tình với ý kiến của bạn mình . Nếu em không đồng tình với ý kiến của bạn thì em sẽ làm như thế nào ? Giáo viên chỉ nên định hướng, gợi mở cho các em ví như Nếu chúng ta không đồng ý hòa thì tình hình sẽ thế nào …? Hoặc Nếu đồng ý hòa thì chúng ta nên cảnh giác thế nào …? Khi tổ chức cho học sinh giáo viên cần lưu ý vấn đề thời gian, nếu học sinh trả lời quá lan man, dài dòng hoặc không ăn nhập chủ đề giáo viên có thể ngắt lời để tránh mất quá nhiều thời gian . Với cách đặt vấn đề như vậy học sinh vừa được đặt mình vào nhân vật lịch sử, vừa tự đưa ra cách giải quyết riêng và vừa tự rút ra cho mình bài học kinh nghiệm lịch sử. Với cách làm việc như vậy giáo viên không cần làm việc nhiều , học sinh làm việc là chính không những vậy còn tạo hứng thú cho học sinh rất nhiều . Khi tổ chức cho học sinh giáo viên cần dẫn dắt để học sinh có thể hiểu rõ vấn đề. Phương pháp tự học bằng cách giải quyết vấn đề là phương pháp học sinh phải tiến hành hoạt động trí tuệ, tự lĩnh hội tri thức mới bằng cách giải quyết vấn đề học tập dưới sự giúp đỡ của giáo viên, góp phần phát triển tư duy cho học sinh. 4. Ứng dụng công nghệ thông tin giúp các em tự học Ngày nay có một phương tiện dạy học hiện đại có tác dụng lớn trong việc tạo hứng thú cho các em trong dạy học đó là sử dụng giáo án trình chiếu được thiết kế trên các phần mềm như powerpoint, Violet, LectureMaker… , đối với môn Lịch sử giáo viên khéo léo sử dụng giáo án trình chiếu sẽ giúp các em tự học tốt hơn rất nhiều. Ví như dạy bài 21 khởi nghĩa Lí Bí . Nước Vạn Xuân 542- 602 giáo viên có thể lồng ghép đoạn phim hoạt hình nói về khởi nghĩa Lí Bí là đoạn phim “Vạn Xuân Chiến Quốc” sẽ tạo hứng thú cho học sinh rất nhiều và xem phim học sinh có thể khắc sâu kiến thức không chỉ những kiến thức có trong sách giáo khoa mà còn có thể bổ sung thêm kiến thức bên ngoài . Những đoạn phim hoạt hình này trên mạng in tơ nét rất dễ tìm kiếm. Hay dạy bài 27 Ngô Quyền và Chiến Thắng Bạch Đằng năm 938 giáo viên có thể đưa đoạn phim hoạt hình “ Đại chiến Bạch Đằng” hay dạy bài 17- 18 Cuộc khởi nghĩa Hai Bà Trưng giáo viên có thể đưa đoạn phim hoạt hình “Trưng Nữ Vương” Tôi có cóp các đoạn phim hoạt hình ra đìa CD kèm theo trong sáng kiến kinh nghiệm. Với những đoạn phim hoạt hình này phù hợp với lứa tuổi của các em, kích thích các giác quan. Không chỉ giúp các em nắm kiến thức vững hơn còn có tác dụng giáo dục tư tưởng, tình cảm yêu quê hương, đất nước, căm thù quân xâm lược . Cần lưu ý giáo viên không nên đưa những đoạn phim quá dài sẽ chiếm nhiều thời gian của tiết dạy. Giáo viên cũng có thể cắt bớt những phần không cần thiết trước khi đưa vào giáo án trình chiếu . Để làm tốt việc này mỗi giáo viên chúng ta phải trau dồi thêm kiến thức tin học để phục vụ tốt nhất cho việc giảng dạy của mình . Hay khi dạy về Triệu Quang Phục và đầm Dạ Trạch giáo viên có thể trích một đoạn phóng sự giới thiệu về Đầm Dạ Trạch ngày nay. Như phóng sự “Câu chuyện đầm Dạ Trạch” qua phóng sự học sinh có thể quan sát được về khung cảnh đầm Dạ Trạch mặc dù chỉ là khung cảnh của ngày nay nhưng phần nào học sinh cũng sẽ nhận thấy được ưu thế của đầm mà sử dụng tranh thì không đem lại tác dụng tối ưu. Không những vậy học sinh còn tự nắm được về truyền thuyết của đầm không chỉ gằn liền với tên tuổi của Triệu Quang Phục mà còn gắn với truyền thuyết Tiên Dung – Chử Đồng Tử mà nếu chỉ sử dụng lời giảng của giáo viên dễ đem đến sự nhàm chán . Hay khi dạy bài 18 “Trưng vương và cuộc kháng chiến chống quân xâm lược Hán” giáo viên chiếu lược đồ Kháng chiến chống quân xâm lược Hán . Với những kí hiệu, mũi tên quân ta, quân Hán có màu sắc đối lập rõ ràng dễ phân biệt, hiệu ứng sinh động rất hấp dẫn học sinh khi theo dõi diễn biến . Trước khi tường thuật diễn biến giáo viên yêu cầu học sinh theo dõi lược đồ , giáo viên giới thiệu phần chú thích, sau đó chiếu đến đâu tường thuật diễn biến đến đó, trong quá trình tường thuật diễn biến kết hợp ra câu hỏi cho học sinh . Tháng 4 năm 42 quân Hán tấn công Hợp Phố . Quân ta ở Hợp Phố anh dũng chống trả rồi rút lui . Giáo viên chiếu vị trí Hợp Phố sử dụng kí hiệu để học sinh dễ nhận biết vùng hợp phố . Sau đó giáo viên hỏi học sinh “ Sau khi quân Mã Viện chiếm được Hợp Phố chúng đã tiến vào nước ta như thế nào ?”. Sau khi học sinh trả lời giáo viên tiếp tục tường thuật Mã viện chia quân làm 2 đạo thủy – bộ tiến vào Giao chỉ . Đạo quân bộ men theo bờ biển , qua Quỷ Môn Quan Tiên Yên – Quảng Ninh , rồi xuống Lục Đầu . Đạo quân thủy từ Hợp Phố vượt biển vào sông Bạch Đằng , rồi ngược lên vùng Lục Đầu , hai cánh quân thủy – bộ hợp nhau tại Lãng Bạc . Giảng đến đâu giáo viên chiếu trên lược đồ đến đó để học sinh dễ theo dõi . Sau đó giáo viên lại hỏi “ Lúc này quân ta đã làm gì?”- Học sinh trả lời giáo viên giảng tiếp Hai Bà Trưng kéo quân từ Mê Linh đến vùng Lãng Bạc để nghênh chiến . Cuộc chiến đấu diễn ra quyết liệt . Giáo viên có thể khắc sâu cho học sinh bằng một số câu hỏi“Lãng Bạc là vùng đất như thế nào? Tại sao Mã Viện lại nhớ về vùng đất này như vậy ? Có phải vì thời tiết ở đây quá khắc nghiệt hay không?” Sau khi học sinh trả lời xong giáo viên giảng tiếp kết hợp trình chiếu trên lược đồ Thế giặc mạnh ta phải lui về giữ Cổ Loa và Mê Linh Mã Viện đuổi theo ráo riết, ta phải lui về Cấm khê, quân ta kiên quyết chống trả . Tháng 3 năm 43 Hai bà Trưng hi sinh ở Cấm Khê . Sau bài dạy giáo viên có thể củng cố lại bằng cách cho học sinh trình bày lại diễn biến trên lược đồ trình chiếu . Như vậy với việc giáo viên vừa trình bày diễn biến vừa ra câu hỏi cho học sinh kết hợp với sử dụng lược đồ trên máy chiếu sẽ kích thích các giác quan của học sinh vừa nghe – nhìn – suy nghĩ tránh lối truyền thụ một chiều, gây hứng thú cho học sinh, nâng cao khả năng tự học. 5. Hướng dẫn học sinh tự học thông qua tiết hoạt động ngoại khóa Thi kể chuyện lịch sử Lịch sử với tư cách là một môn khoa học có vai trò quan trọng trong việc giáo dục học sinh không chỉ lòng yêu nước, lòng biết ơn, mà còn giáo dục học sinh tình cảm yêu ghét, yêu cái đẹp, yêu lao động, căm thù quân xâm lược . Những câu chuyện lịch sử phù hợp với cách tổ chức dạy học phù hợp có tác dụng rất to lớn trong việc giáo dục đạo đức học sinh không những vậy còn tạo ra một động lực mạnh mẽ để các em phát huy tính tích cực, chủ động, độc lập, sáng tạo, trong quá trình học tập nhằm vươn tới nắm bắt kiến thức, biến kiến thức trong sách vở, kiến thức của thầy cô thành kiến thức của mình . Những câu chuyện lịch sử nhìn chung thường có nội dung về những sự kiện, hiện tượng lịch sử, những nhân vật lịch sử … Thông qua những câu chuyện ấy bồi dưỡng những tình cảm tốt đẹp trong tâm hồn ngây thơ, trong trắng của các em, những mẩu chuyện hay sẽ tạo được ấn tượng mạnh mẽ , sâu sắc, khó quên giúp các em có thể nhớ rất lâu về một sự kiện lịch sử nổi bật, về một nhân vật anh hùng … Có nhiều cách để đưa những câu chuyện lịch sử đó đến với các em như giáo viên có thể sưu tầm về kể cho các em, lồng ghép trong các tiết dạy …nhưng với một tiết hoạt động ngoại khóa thì nên để cho các em tự kể bằng cách tổ chức cho các em thi giữa các nhóm . Trong chương trình lịch sử lớp 6 có rất nhiều câu chuyện liên quan đến các sự kiện , nhân vật lịch sử rất quen thuộc với các em có thể các em đã được biết đến từ cấp 1 hoặc thông qua các môn học khác như môn văn học như truyền thuyết Âu Cơ – Lạc Long Quân , Thánh Gióng , Sơn Tinh – Thủy Tinh, Mị Châu – Trọng Thủy, Thục An Dương Vương xây thành Cổ Loa, Thục An Dương Vương bãi chức tướng quân Cao Lỗ … – Giáo viên có thể tổ chức cho các em thi bằng cách chia lớp làm 4 đội, giáo viên tự đặt tên cho mỗi đội, phân cho mỗi đội kể chuyện về một nhân vật lịch sử hoặc một thời kì lịch sử. – Giáo viên hướng dẫn các em sưu tầm tài liệu để học sinh có thể kể tốt hơn. Hoặc giáo viên có thể chuẩn bị sẵn nội dung và yêu cầu học sinh kể chuyện. – Giáo viên yêu cầu tất cả học sinh của tổ mình phải sưu tầm tài liệu và khi kể chuyện gọi bất kì học sinh nào lên kể. Sau tiết học giáo viên có thể ra thêm câu hỏi thu hoạch cho học sinh – Hình thức thi Mỗi đội sẽ kể 1 đến 2 câu chuyện về nhân vật hoặc sự kiện lịch sử. – Cách chấm điểm dựa vào nội dung, giọng kể, điệu bộ, cử chỉ. Nếu tốt sẽ đạt điểm tối đa là 10 điểm. – Đội nào thắng nhất được thưởng 4 gói kẹo, nhì 3 gói, ba 2 gói, tư 1 gói. Làm như vậy học sinh sẽ lĩnh hội được kiến thức, tạo lòng ham học cho học sinh. Giáo viên có thể căn cứ vào chương trình lịch sử lớp 6 các em đã học cung cấp một số nội dung câu chuyện phù hợp chương trình học, có tính giáo dục cao, lượng kiến thức lịch sử trong các câu chuyện phù hợp với nội dung học tập của các em . Rồi giao cho các đội về nhà tìm hiểu nội dung để sau khi kể xong giáo viên ra câu hỏi thu hoạch cho các đội để kiểm tra lại sự hiểu biết của các em, xem qua các câu chuyện đó các em nắm được những gì . Như một số câu chuyện sau Thục An Dương Vương bãi chức tướng quân Cao Lỗ . Chuyện xưa kể rằng Một lần Thục An Dương Vương hỏi tướng quân Cao Lỗ, người thiết kế và chỉ huy công trình xây thành Cổ Loa – Mấy năm nay nhà Triệu với Âu Lạc giao hảo thuận hòa . Nay con trai họ là Trọng Thủy muốn cầu hôn với Mị Châu, ông nghĩ thế nào ? Riêng ta muốn chấp nhận lời cầu hôn cốt để hòa hiếu , tránh nạn binh đao? Cao Lỗ suy nghĩ hồi lâu rồi tâu – Việc này hệ trọng lắm , xin Vương Thượng cho nghĩ ba ngày . Về nhà , Cao Lỗ suy nghĩ băn khoăn lắm . Ý vua An Dương Vương đã rõ, nếu không chấp thuận, có thể bị bãi chức . Nếu đồng tình thì vận nước có cơ nguy . Mấy hôm sau vào chầu vua . Cao Lỗ tâu – Xưa nay chưa thấy kẻ bại trận lại xin cho con trai ở gửi rể . Chẳng qua họ muốn biết cách bố phòng của Loa Thành mà thôi . Việc ngàn lần không nên . Thục An Dương Vương bỗng nổi giận – Nhà Triệu đánh mãi Âu Lạc không thắng , muốn mượn câu chuyện cầu hôn để xí xóa hiềm khích, ta lẽ nào không thuận ? Ông già rồi, ta cho ông về nghỉ . Cao Lỗ không ngạc nhiên . Vốn điềm đạm, ông chỉ nói – Việc đúng sai còn có vầng nhật nguyệt soi sáng , thần không ân hận khi nói điều phải . Vì không nghe lời can của Cao Lỗ , An Dương Vương đã mắc mưu giặc khiến cho vận nước tan tành . Lấy được Âu Lạc, nhà Triệu sát nhập quận Nam Hải với Âu Lạc thành nước Nam Việt . Vốn là người quỷ quyệt, lại rút được nhiều kinh nghiệm trong việc thống trị người nam Việt, cho nên Triệu Đà đã dùng chính sách hiểm độc gọi là “ Dĩ di công di”, tức là chính sách dùng người Việt trị người Việt . Triệu Đà vẫn giữ nguyên quyền vị cho các Lạc Tướng , dùng họ để cai trị nhân dân Âu Lạc . Triệu Đà chỉ đặt một số ít quan lại và một số quân đồn thú để kiềm chế các lạc tướng và đốc thúc họ nộp phú cống , mục tiêu chủ yếu của cuộc xâm lược lúc đó . Theo sách Các triều đại Việt nam . Câu hỏi thu hoạch Tại sao An Dương Vương thất bại trong cuộc kháng chiến chống quân xâm lược Triệu Đà? Qua câu chuyện em có suy nghĩ gì về Cao Lỗ? … Vua đen họ Mai . Năm Nhâm Tuất 722 đời vua Huyền Tông nhà Đường, ở Hoan Châu nổ ra cuộc khởi nghĩa của Mai Thúc Loan . Mai Thúc Loan quê ở Mai Phụ, Thạch Hà, Hà Tĩnh . Thủa nhỏ, nhà ông nghèo lắm, ông có nước da đen sạm xấu xí . Nhưng ông đã sớm bộc lộ thiên tư thông minh, sáng ý kì lạ và có sức khỏe tuyệt vời . Châu Hoan ngày ấy chịu ách thống trị tàn bạo của nhà Đường, làm cho nhân dân vô cùng cực khổ . Đặc biệt là nạn cống nộp “quả lệ chi” quả vải , thời đó vua Dường có một nàng ái phi nhan sắc tuyệt vời mà tính tình cũng thất thường . Dương quý phi thích ăn quả lệ chi xinh xắn, chỉ ở An Nam mới có . Nên vua Đường bắt dân An Nam phải cống Vải . Mùa vải năm Nhâm Tuất 722, Mai Thúc Loan cùng đoàn phu phải gánh vải đi cống nộp. Đoàn người gánh vải đầm đìa mồ hôi mà vẫn phải lê từng bước trên đường . Gần trưa , mọi người nghỉ chân ở bên rừng . Cái khát cháy cổ hành hạ đoàn phu . Một dân phu có tuổi bứt lấy một quả ăn cho đỡ khát . Quả Vải chưa kịp đưa lên miệng đã bị một tên lính Đường đi áp tải xông tới, vung cán mã tấu đánh vào đầu . Khi tên lính Đường lần nữa định đánh ông già , thì hắn đã bị đánh chết tươi . Sự việc xảy ra nhanh như chớp . Bọn giặc cậy có vũ khí hò hét vung đao , kiếm xông vào Mai Thúc Loan . Nhưng những người dân phu theo lệnh Mai Thúc Loan , đã rút đòn gánh chống lại . Lũ giặc không địch nổi đoàn dân phu đều phải đền tội . Đánh tan lũ giặc Đường trong một cơn phẫn nộ . Mai Thúc Loan thổi bùng lên khí thế chống giặc . Vị thủ lĩnh trẻ được tôn thành vị anh hùng, đã hiệu triệu trăm họ hưởng ứng nghĩa lớn và chọn Rú Đụn Hùng Sơn làm căn cứ . Mai Thúc Loan phát hịch kể tội giặc Đường và kêu gọi người Việt đứng lên giữ gìn non sông . Từ căn cứ Hùng Sơn , Mai Thúc Loan mở rộng địa bàn , xây thành Vạn An với quy mô của một kinh thành . Từ đây Mai Thúc Loan tìm cách liên kết với các thủ lĩnh, nhân dân miền núi, với Chăm Pa để có thêm lực lượng chống quân Đường . Mai Thúc Loan được nhân dân tôn làm Hoàng đế lấy hiệu là mai Hắc Đế Vua đen họ Mai. Sau đó, Mai Thúc Loan đã chiếm được phủ thành Tống Bình Hà Nội , đuổi tên trùm đô hộ Quang Sở Khách phải tháo chạy . Đất nước được giải phóng . Nhưng lúc này nhà Đường còn mạnh . Vua Đường huy động 10 vạn quân sang đàn áp . Mai Hắc Đế phải rút vào rừng , sau bị ốm rồi mất . Quân Đường tàn sát nhân dân ta vô cùng dã man . Tội ác của giặc chỉ làm tăng thêm lòng căm thù quân xâm lược . Nhân dân nhớ ơn Mai Hắc Đế, lập đền thờ, đề thơ ca ca tụng ông Hùng cứ Hoan Châu đất một vùng . Vạn An thành lũy khói hương xông . Bốn phương Mai Đế lừng uy đức Trăm trận Lí Đường phục vò công …. Đường đi cống vải từ đây đứt Dân nước đời đời hưởng phúc chung . Theo sách Các triều đại Việt Nam Câu hỏi thu hoạch Vì sao Mai Thúc Loan kêu gọi mọi người khởi nghĩa? Cuộc khởi nghĩadiễn ra như thế nào? Câu chuyện để lại cho em suy nghĩ gì? … Tổ chức dạ hội thời trang- kịch lịch sử Giáo viên cũng chia lớp thành 4 nhóm, giao nhiệm vụ về nhà tìm hiểu về một thời kì lịch sử nào đó như thời Văn Lang – Âu Lạc, các em có nhiệm vụ tìm hiểu về trang phục của thời kì này, mỗi nhóm các em tự thiết kế trang phục của thời kì này và mỗi nhóm tự đóng một vở kịch ngắn về thời kì này các em có thể tự sáng tạo ra vở kịch dựa vào kiến thức lịch sử hoặc lấy nội dung các câu chuyện truyền thuyết để làm vở kịch của nhóm mình như Sơn Tinh – Thủy Tinh, Thánh Gióng, Mị Châu – Trọng Thủy….Trang phục các em thiết kế sao cho phù hợp với vở kịch của mình . Yêu cầu về trang phục không cần phải làm bằng những chất liệu đắt tiền, không cần phải đặt may, các em có thể tự làm trên những chất liệu sẵn có, dễ làm như Làm bằng giấy tô ki, bìa cát tông hay các loại bao Li lông … các em tự thiết kế , cắt dán … Với cách làm này học sinh tự tìm hiểu kiến thức, tự lĩnh hội kiến thức, rèn năng lực độc lập làm việc, khả năng sáng tạo được phát huy, giúp củng cố kĩ năng làm việc nhóm , tạo sự đoàn kết, gắn bó . Tổ chức dạ hội có tác dụng củng cố, làm sâu sắc, phong phú thêm nhiều tri thức khoa học và nghệ thuật, khơi dậy những cảm xúc làm cơ sở để giáo dục tình cảm, bồi dưỡng óc thẩm mĩ, gây hứng thú học tập bộ môn. 6. Hướng dẫn học sinh tự học qua phần củng cố bài Thông thường giáo viên không xem trọng vấn đề này, trong quá trình đi dự giờ, tôi thấy đa số giáo viên đi lướt qua phần củng cố này. Củng cố bài thường là câu hỏi đã có sẵn ở mục bài, học sinh sẽ đọc y nguyên nội dung trong mục đó. Nên hiệu quả học không cao. Giáo viên cần hướng dẫn học sinh củng cố bài bằng cách làm bài tập trắc nghiệm, hoặc giải ô chữ, bài tập ghép đôi, chơi trò chơi, sử dụng sơ đồ tư duy … Giáo viên yêu cầu dán bài tập che lên kín phần giáo viên ghi bảng, học sinh tất cả phải gấp sách vở lại, tài liệu liên quan. Giáo viên gọi bất kì học sinh nào lên làm bài tập, hoặc gỡ ô chữ, ghép đôi mà giáo viên đã chuẩn bị sẵn, học sinh khác nhận xét, giáo viên chốt lại. Như vậy học sinh sẽ rèn luyện được ý thức tự học. Ví dụ sau khi dạy xong bài 6 Văn hóa cổ đại giáo viên có thể đưa ra một sơ đồ tư duy sau yêu cầu học sinh hoàn thành. Giáo viên sẽ đưa ra sơ đồ chỉ có những nhánh chính, còn những nhánh nhỏ bỏ trống ở sơ đồ này có 2 nhánh lớn , mỗi nhánh lớn có 4 nhánh chính để định hướng cho học sinh, sau đó giáo viên gợi ý bằng những câu hỏi . Ví như Người phương Đông cổ đại đã đạt được những thành tựu gì về thiên văn ? Hay người Hi Lạp , Rô ma cổ đại đã đạt những thành tựu gì về thiên văn ? Học sinh trả lời , giáo viên đưa ra những nhánh tiếp theo để học sinh theo dõi . Nếu giáo viên dạy không có giáo án trình chiếu giáo viên nên che lại những nhánh nhỏ, sau khi học sinh trả lời mới mở ra , còn nếu dạy giáo án điện tử thì thuận tiện hơn, giáo viên nên dùng hiệu ứng cho thích hợp . Tương tự như vậy đối với các thành tựu khác Chữ viết , kiến trúc …Giáo viên dùng các câu hỏi gợi mở để học sinh tìm hiểu . Với cách củng cố bài như vậy học sinh sẽ nắm bài một cách tổng quát, tự lĩnh hội kiến thức, khi về nhà học bài cũ tránh được tình trạng học vẹt ở các em . Hướng dẫn các em tự học qua khai thác kênh hình Những kênh hình có sẵn trong sách giáo khoa dưới dạng nêu vấn đề để học sinh suy nghĩ, giảm tải được 25% số lượng kênh chữ. Theo số liệu khoa học của UNESCO “Khi nghe, học sinh chỉ nhớ 15% thông tin, khi nhìn không ai nói gì học sinh chỉ nhớ 25%, khi nghe và nhìn học sinh sẽ nhớ 65% thông tin”. Nếu biết huy động sự tham gia của nhiều giác quan, sẽ kết hợp chặt chẽ được hai hệ thống tín hiệu với nhau, tai nghe mắt thấy tạo điều kiện cho học sinh dễ hiểu, nhớ lâu, gây được những mối liên hệ thần kinh tạm thời khá phong phú, phát triển ở học sinh năng lực chú ý, quan sát, hứng thú . Kênh hình không chỉ minh họa, đặt cơ sở cho việc tạo biểu tượng lịch sử mà là nguồn cung cấp kiến thức cho học sinh. Bên cạnh đó một số bài viết trong sách giáo khoa còn có nhiều nội dung để ngỏ chưa viết hết, yêu cầu học sinh thông qua làm việc với tranh ảnh, sơ đồ, bản đồ…Sẽ cần thiết liên quan đến nội dung bài học mà tác giả trong sách giáo khoa muốn chuyển tải đến học sinh. Ví như Khi học bài Nước Văn Lang dạy về phần tổ chức bộ máy nhà nước Văn Lang giáo viên chỉ cần yêu cầu học sinh vẽ lại sơ đồ tổ chức bộ máy nhà nước Văn Lang và tự nắm kiến thức theo sơ đồ. Và có thể dựa vào sơ đồ này để học sinh vẽ được sơ đồ nhà nước thời An Dương Vương . Từ đây học sinh có thể nêu nhận xét so sánh về tổ chức bộ máy nhà nước Văn Lang Và Âu Lạc . Để hướng dẫn học sinh nắm kiến thức theo sơ đồ giáo viên có thể hỏi một số câu hỏi gợi ý như “Đứng đầu nhà nước là ai ?” “Giúp việc cho vua là ai?” “Dưới cấp trung ương là cấp nào? Ai đứng đầu?”… Kênh hình phong phú đa dạng như vậy đòi hỏi giáo viên phải sử dụng linh hoạt, sáng tạo, hướng dẫn học sinh về nhà tìm hiểu những nội dung đó để các em có biểu tượng ban đầu về sự kiện, hiện tượng, nhân vật lịch sử…Thể hiện trong kênh hình. Tuy nhiên đây là việc khó khăn với học sinh. Nên giáo viên phải hướng dẫn cho học sinh quan sát. Thông thường kênh hình nói chung và hình vẽ tranh ảnh nói riêng được trình bày với tư cách là nguồn cung cấp thông tin, kiến thức được kèm theo câu hỏi để học sinh tự làm việc với sách giáo khoa dưới sự hướng dẫn của giáo viên. Nhằm rút ra những kiến thức lịch sử nhất định. Giáo viên hướng dẫn học sinh quan sát từ tổng thể đến chi tiết, kết hợp mô tả, phân tích, đàm thoại qua hệ thống câu hỏi gợi mở để học sinh tự rút ra những kết luận. Giáo viên có thể tổ chức cho các em làm việc cá nhân, theo nhóm hoặc cả lớp. Ví dụ Khi xem bức tranh Kim tự tháp Ai Cập giáo viên giảng một số ý “Kim tự tháp là một khối đá hình tháp, hàng ngàn người đã được huy động mang những tảng đá lớn từ dãy A – ráp tới sông Nil, hàng triệu tảng đá được ghè đẽo, mài nhẵn, chồng xếp lên nhau không có một loại vật liệu kết dính nào”. Sau đó giáo viên có thể hỏi “Em có suy nghĩ gì qua công trình kiến trúc này?” học sinh sẽ nhận thức được đây là một công trình kiến trúc vĩ đại, thể hiện tài năng, năng lực của con người thời kì bấy giờ, và các em sẽ thêm thán phục và biết quý trọng những người đã làm ra nó . Ví như Khi quan sát bức tranh hình 8 SGK sử 6 sách giáo khoa có câu hỏi “ Em hãy miêu tả cảnh làm ruộng của người Ai Cập ?”. Giáo viên có thể hướng dẫn học sinh quan sát “ Hàng dười từ trái sang phải người nông dân đang làm gì ? Hàng trên từ phải sang trái người nông dân đang làm những việc gì ?” học sinh sẽ tự miêu tả nhận xét được cảnh làm ruộng của người Ai cập cổ đại dưới sự hướng dẫn của giáo viên học sinh sẽ tự làm việc với sách giáo khoa . Bên cạnh kênh hình có sẵn trong Sách giáo khoa giáo viên có thể bổ sung thêm một số hình ảnh từ phòng thiết bị của nhà trường hoặc nếu dạy máy chiếu thì rất thuận tiện. Ví như Khi dạy bài 24 Nước Chăm Pa từ thế kỉ II đến thế kỉ X, Sách giáo khoa có yêu cầu học sinh “ Quan sát hình 53, nhận xét về nghệ thuật kiến trúc của người Chăm ?” . Hình ảnh 53 SGK được chụp rất xa và mờ chỉ có 2 màu đen – trắng nếu yêu cầu học sinh quan sát, nhận xét thì rất khó khăn cho học sinh . Vì vậy giáo viên có thể bổ sung thêm cho học sinh một số hình ảnh khác từ phòng thiết bị của nhà trường hoặc dùng máy chiếu như một số hình sau Như vậy chúng ta thấy các hình trên vừa rõ nét vừa có màu sắc học sinh sẽ thấy rõ được đường nét điêu khắc, kiến trúc, nghệ thuật điêu khắc độc đáo, tài tình thể hiện được bàn tay khối óc và tâm hồn của người Chăm . Bên cạnh việc học sinh quan sát hình cùng với sự hướng dẫn của giáo viên chắc chắn học sinh sẽ lĩnh hội tri thức tốt hơn. 8. Hướng dẫn học sinh tự học qua tiết làm bài tập – Giáo viên nên chia lớp làm 4 tổ – Chia bảng làm 4 phần bằng nhau – Hình thức thi Giáo viên gọi bất kì học sinh trong tổ lên bảng, sau đó giáo viên ra câu hỏi, giám sát kĩ, không cho các tổ nhìn nhau, tổ nào nhắc bài sẽ trừ điểm. Đại diện 4 tổ lần lượt lên bảng. Mỗi lần lên bảng là mỗi tổ một em, trả lời cùng một câu hỏi. – Giáo viên ra câu hỏi nhanh , mỗi tổ trả lời nhanh, đúng sẽ ghi được một điểm cho tổ đó. Nếu các thành viên của tổ lên trả lời sai thì những thành viên ở dưới ai dơ tay phát biểu nhanh sẽ dành được quyền trả lời, nếu đúng sẽ ghi điểm cho tổ đó. – Giáo viên lần lượt ra câu hỏi và gọi từng thành viên lên trả lời. – Cách ghi điểm Mỗi tổ trả lời đúng 1 câu sẽ ghi được một điểm, khi gần kết thúc giờ học giáo viên tổng hợp điểm và cho tổ thắng phạt tổ thua Có thể là hát một bài hát mà tổ thắng cuộc yêu cầu, có thể là múa một điệu phụ họa cho bài hát mà tổ thắng hát. Các thành viên ở dưới cổ vũ, động viên tinh thần trả lời cho đại diện tổ mình. Việc tổ chức cho học sinh thi giữa các tổ như vậy sẽ phát huy được tính tích cực của học sinh, các em sẽ hứng thú học và rất thích được thể hiện mình, kết quả mỗi tiết làm bài tập như vậy học sinh sẽ nhớ kiến thức được lâu hơn. Qua hướng dẫn học sinh tiết làm bài tập, học sinh sẽ hiểu và nhớ lâu vấn đề, sự kiện. Bên cạnh đó cách ra đề kiểm tra cũng ảnh hưởng đến kết quả học tập của học sinh. Đề kiểm tra không nên rườm rà , khó hiểu, mà phải rõ ràng, để học sinh không sa đề. Nhất là đề trắc nghiệm, vì thời gian làm bài của các em có hạn. Ở lớp, không phải giáo viên nói gì là các em ghi hết vào, hoặc chép lại ý chính trong sách giáo khoa . Mà học sinh cần học theo ý hiểu của mình, tiếp thu có chọn lọc, không rập khuôn theo thầy dạy, biến kiến thức của thầy thành kiến thức của trò, có kết hợp hài hoà việc tự học ở lớp và ở nhà thì kết quả sẽ cao hơn . 9. Phối hợp giáo dục nhà trường và gia đình Trẻ em muốn phát triển tốt cần có sự kết hợp của 3 yếu tố “Gia đình – Nhà trường– xã hội”, trong đó yếu tố gia đình là quan trọng nhất “gia đình là tế bào của xã hội” mỗi gia đình tốt sẽ tạo tâm lí tốt cho đứa trẻ khi đến trường , khi ra ngoài xã hội . Vì vậy muốn học sinh học tập tốt trước hết giáo viên cần lưu ý phối hợp tốt giữa giáo dục nhà trường và gia đình để việc tự học của các em có kết quả, cần kết hợp chặt chẽ giữa giáo viên bộ môn với giáo viên chủ nhiệm, kịp thời thông báo việc học tập của học sinh cho phụ huynh nắm để phụ huynh theo dõi, uốn nắn, phụ huynh chuẩn bị đầy đủ sách vở, tài liệu học tập, tạo thời gian cho các em học tập. Giáo viên cần nắm được tâm tư nguyện vọng của học sinh cũng như gia đình các em . Cần tìm hiểu kĩ càng hoàn cảnh gia đình của mỗi học sinh, để từ đó có biện pháp tốt nhất trong giáo dục các em . Đối với những học sinh có hoàn cảnh gia đình đặc biệt giáo viên cần quan tâm nhiều hơn, động viên nhắc nhở kịp thời , thường xuyên liên lạc với phụ huynh để kịp thời uốn nắn các em khi có biểu hiện lơ là, ham chơi, chểnh mảng việc học hành . Có kết hợp như vậy thì việc học của học sinh mới cao. Xem thêm các bài viết khác tại đây SKKN sử 6 Làm sao để học môn lịch sử dễ nhớ các sự kiện, các con số là vấn đề của nhiều bạn học sinh. Hãy tham khảo những mẹo nhỏ là kinh nghiệm của những bạn học sinh giỏi môn Sử dưới đây để học tập nhé!Hướng dẫn một số cách học Môn Sử dễ nhớ nhất1. Hãy học lịch Sử vào thời gian thoải mái nhấtThời gian học cũng rất quan trọng. Môn Sử là một môn khó nhớ, nên hãy học vào những lúc tâm trạng thoải mái nhất. Đặc biệt, không nên học vào lúc tâm trạng không thoải mái, căng thẳng vì khi đó càng học càng đau đầu mà cũng không nhớ biết tận dụng thời gian để học một cách tối đa. Nếu bạn đã học thuộc bài đó rồi, hôm sau hãy xem qua bài cũ rồi mới học bài mới. Bạn có thể đọc to lên để học thuộc nếu cần, hoặc không chỉ lẩm nhẩm trong đầu cũng được. Tất nhiên là hãy sử dụng cách học nào theo bạn là hứng thú và giúp bạn dễ thuộc bài Cần đơn giản hóa những con sốĐể học tốt môn sử phải nắm được kiến thức cơ bản và các ý chính trong bài giảng của giáo viên trên nhận chương trình môn sử có nặng nội dung với nhiều số liệu và thiếu hình ảnh, nhưng các em học sinh đều cho biết, nếu thực sự nắm được các vấn đề trong bài và biết cách học thì ôn sử không quá khó. Ngoài sách giáo khoa, tìm hiểu thêm các tài liệu tham khảo, nhất là các mẩu chuyện lịch sử. Theo Thúy, cách học này vừa giúp kiến thức lịch sử của em thêm phong phú, vừa khiến cho môn sử sinh động hơn, dễ nhớ nhớ các mốc sự kiện, những số liệu nên gắn với những điều quen thuộc trong cuộc sống như ngày sinh nhật của người thân, bạn bè, ngày lễ Tết…3. Học lịch sử nên vạch ý chính theo sơ đồCùng với việc nhớ được các số liệu chuẩn xác thì nắm được kiến thức lịch sử một cách hệ thống cũng là thách thức với rất nhiều học sinh. Học sử cũng có công thức, tìm ý chính, sau đó tìm ra các ý nhỏ hơn, ví dụ cụ thể, chẳng hạn như học về sự kiện thành lập Đảng Cộng sản Việt Nam thì phải hiểu các vấn đề liên quan như hoàn cảnh lịch sử, nguyên nhân để thành lập Đảng vào thời điểm đó mà không phải thời điểm khác, việc thành lập Đảng có vai trò, tác động gì đến các sự kiện tiếp theo…Học theo hệ thống luôn ghi nhớ các sự kiện, học theo các chủ đề xuyên suốt chiều dài lịch sử để so sánh giữa các thời kỳ. Để hiểu thêm về nội dung bài học, phát hiện và tìm cách giải quyết vấn đề, tự đặt câu hỏi và tìm ra câu trả lời để tạo được hứng thú khi học. Để nhớ sự kiện và mốc thời gian xảy ra sự kiện đó, nên lập bảng niên biểu ngắn gọn bao gồm một cột là mốc thời gian, một cột là tên sự kiện, làm như vậy các em sẽ ghi nhớ tốt một chiến dịch, cuộc khởi nghĩa nào các em nên học theo tiến trình chung. Mỗi bài học đọc kỹ một lần rồi làm sơ đồ tia. Ví dụ chiến tranh cục bộ sẽ bao gồm các nhánh chính là định nghĩa, âm mưu của địch, kế hoạch của ta, diễn biến, kết quả, ý nghĩa. Sau đó từ mỗi nhánh lại làm các tia nhỏ hơn. Việc học sơ đồ tia hiệu quả cao hơn rất nhiều so với việc học cả trang sách dài loằng ngoằng và một điều nữa là học bằng cách nhìn vào chính chữ mình bao giờ cũng dễ nhớ hơn là nhìn vào chữ mẹo nhỏ nữa là các em hãy gắn các tờ giấy ghi sự kiện lên chỗ nào mà mình hay nhìn thấy nhất tủ lạnh, cửa sổ, mặt bàn học để thường xuyên nhìn thấy nó, sẽ giúp ghi nhớ tự nhiên So sánh cách sự kiện với nhau để nhớ lâuHọc Lịch sử bằng cách so sánh các sự kiện với nhau cũng là cách để nhanh nhớ, nhớ lâu. Ví dụ khi học về giai đoạn lịch sử từ 1961- 1975, nên so sánh ba chiến lược chiến tranh theo tiến trình học tập chung học tập Lịch sử, không phải ai cũng có khả năng nhớ chi tiết các ngày tháng, con số. Do đó các em nên tập cho mình cách “nhớ tương đối”. Tức là trong sự kiện không nhất thiết phải nhớ ngày mà chỉ cần nhớ tháng, năm hoặc là vào nhớ năm và khoảng thời gian trong năm xảy ra sự kiện đó. Ví dụ cuối năm 1925, thu- đông năm 1947. Tuy nhiên những sự kiện lớn, quan trọng của tiến trình Lịch sử thì bắt buộc phải nhớ như các mốc thời gian mùng 2 tháng 9 năm 1945 hoặc 30 tháng 4 năm 1975…5. Phải biết xâu chuỗi các sự kiệnTuy nhiên các sự kiện đều có mối quan hệ xâu chuỗi với nhiều sự kiện khác. Nếu bạn tìm ra sự liên kết ấy, việc nhớ sẽ dễ hơn nhiều. Ví dụ từ sự kiện thành lập Đảng, trước đó là cả một sự chuẩn bị lâu dài, nó sẽ liên quan đến các sự kiện như ngày Bác ra đi tìm đường cứu nước, ngày thành lập Hội Việt Nam Cách Mạng thanh niên…Mỗi bài học đọc kỹ một lần rồi làm sơ đồ tia. Ví dụ chiến tranh cục bộ sẽ bao gồm các nhánh chính là định nghĩa, âm mưu của địch, kế hoạch của ta, diễn biến, kết quả, ý nghĩa. Sau đó từ mỗi nhánh lại làm các tia nhỏ ra, để dễ nhớ, các bạn nên lập bảng các sự kiện, trong đó có mốc thời gian, nội dung, kết quả, ý nghĩa cơ bản… Việc học sơ đồ tia hiệu quả cao hơn rất nhiều so với việc học cả trang sách dài loằng ngoằng và một điều nữa là học bằng cách nhìn vào chính chữ mình bao giờ cũng dễ nhớ hơn là nhìn vào chữ in. Và hãy nhớ là chỉ viết tóm tắt nội dung chính yếu nhất sau đó dán lên góc học tập hoặc những chỗ dễ thấy để lúc nào cũng có thể… liếc khi học, bạn ghi các mốc thời gian ra nhiều tờ giấy nhỏ khác nhau. Mỗi ngày bốc một tờ giấy ghi mốc thời gian rồi nêu sự kiện trong năm đó ra giấy hoặc đọc thuộc lòng, nếu chưa thuộc thì không nên học bài mới mà ôn lại ngay bài đó. Những mốc thời gian thường khó nhớ hơn là sự kiện vì dễ bị nhầm. Do đó bạn nên liên hệ đến những ngày tháng đặc biệt mà mình biết. Khi học đến sự kiện mới có ngày tháng hơi giống sự kiện cũ thì nên liên tưởng nhiên, không phải bất cứ mốc thời gian nào cũng phải nhớ, nên bỏ qua những sự kiện, chi tiết vụn vặt. Đừng tham quá nhiều chi tiết .Phần Lịch sử Việt NamChương trình thi là thời kỳ 1919 – 2000. Thời kì này sẽ được chia thành nhiều giai đoạn lịch sử khác nhau và mỗi giai đoạn lịch sử sẽ có các sự kiện nổi bật. Chính vì vậy, các bạn nên học theo một cấu trúc chung cho tất cả các giai đoạn lịch sử như sau + Nội dung cơ bản của cách mạng Việt Nam là gì? + Nhiệm vụ cốt lõi của cách mạng Việt Nam ở giai đoạn này là gì? + Có những sự kiện tiêu biểu nào? Sự kiện nào tiêu biểu nhất ? Chiến thắng Điện Biên Phủ sự kiện nổi bật của cách mạng Việt Nam giai đoạn 1945-1954 Ví dụ Giai đoạn từ 1919 – 1930 Nội dung chính, nhiệm vụ chính của cách mạng Việt Nam cần phải giải quyết là quá trình đấu tranh để xác lập khuynh hướng cứu nước mới khi ngọn cờ phong kiến đã thất bại và khuynh hướng dân chủ tư sản đã lỗi thời. Kiến thức khởi đầu làm tiền đề cho nhiều vấn đề khác của giai đoạn này là chương trình khai thác thuộc địa lần thứ 2 của thực dân Pháp liên quan đến sự chuyển biến về kinh tế và sự phân hóa xã hội, phong trào yêu nước, phong trào công nhân, hoạt động cứu nước của lãnh tụ Nguyễn Ái kiện kết thúc cho giai đoạn này là việc thành lập Đảng Cộng sản Việt Nam 2/1930 đánh dấu sự thắng thế hoàn toàn của khuynh hướng cứu nước vô sản và sự xác lập quyền lãnh đạo của giai cấp vô sản, là bước ngoặt lịch sử vĩ đại của dân tộc Việt Nam. Tóm lại, vấn đề cốt lõi nhất của cách mạng Việt Nam giai đoạn này là quá trình chuẩn bị thành lập Đảng về tư tưởng chính trị và tổ chức. Phần lịch sử thế giớiCách học dễ nhớ nhất là ôn tập theo từng vấn đề trên cơ sở bài Tổng kết lịch sử thế giới hiện đại từ 1945 đến 2000. Để tránh sự nhầm lẫn về kiến thức và sự kiện, bạn nên lập biểu những sự kiện chính theo từng vấn đề và sơ đồ hoá kiến thức theo từng nội dung chủ yếu sẽ hiệu quả Làm bài thi môn Lịch sử cần lưu ý+ Để làm tốt bài thi môn Lịch sử, trước hết phải chăm chỉ học tập, nắm thật vững kiến thức, và đừng học theo kiểu cầu may.+ Khi trình bày bài chữ viết cần viết rõ ràng nhiều bạn chữ rất xấu, thậm chí là sai lỗi chính tả rất nhiều, bài viết sạch đẹp. Hình thức tuy không quyết định nội dung, nhưng cũng là rất cần với những môn khoa học xã hội.+ Khi làm bài, trước khi viết phần trả lời cho từng câu hỏi, nên viết ra giấy nháp những ý chính, ý nhỏ cho từng câu hỏi để đảm bảo đủ ý.+ Nên lựa chọn những câu hỏi dễ làm trước, khó làm sau; câu hỏi có nội dung cụ thể trước, tổng hợp sau.+ Với những câu hỏi tổng hợp, cần lựa chọn những nội dung tiêu biểu, sự kiện tiêu biểu và có tính khái quát cao, tránh sa đà vào mô tả chi tiết.+ Với những câu lựa chọn những sự kiện tiêu biểu, nên lựa chọn những sự kiện lớn có ảnh hưởng đến chung cuộc không nên lựa chọn những sự kiện nhỏ không mang tính tiêu biểu.STOriginally posted 2021-05-10 053850. SKKN Một số biện pháp dạy môn Lịch sử lớp 5 theo hướng phát triển năng lực giúp học sinh yêu thích môn học Lịch sử I. PHẦN MỞ ĐẦU Lý do chọn đề tài Tiểu học là cấp học nền tảng đặt cơ sở ban đầu cho việc hình thành và phát triển toàn diện nhân cách của con người, đặt nền tảng vững chắc cho giáo dục phổ thông và cho toàn bộ hệ thống giáo dục quốc dân. Việc dạy học lịch sử nói riêng cũng như dạy học các môn học khác vấn đề là phải giúp người học lĩnh hội được kiến thức, giáo dục đạo đức và hình thành nhân cách cho học sinh. Trong những năm qua việc thực hiện chương trình, sách giáo khoa mới cũng như việc đổi mới phương pháp dạy học đã khẳng định rõ hơn vai trò của người học. Trong việc đổi mới, cải tiến phương pháp dạy và học, việc phát huy tính tích cực của học sinh có ý nghĩa quan trọng. Bởi vì xét cho cùng công việc giáo dục phải được tiến hành trên cơ sở tự nhận thức, tự hành động. Giáo dục phải được thực hiện thông qua hành động và bằng hành động của bản thân tư duy và thực tiễn. Sinh thời Bác Hồ đã nói “Dân ta phải biết sử ta, Cho tường gốc tích nước nhà Việt Nam” Vì đã là người Việt Nam thì dù ở đâu cũng phải biết lịch sử của nước nhà và đó cũng chính là đạo lí “Uống nước nhớ nguồn” của dân tộc ta. Nhưng thực tế việc dạy và học môn Lịch sử chưa đạt hiệu quả như mong muốn bởi còn gặp một số khó khăn. Từ đó trong những năm gần đây qua thực tế ở nhà trường tôi nhận thấy hầu như các em học sinh chưa nhận thức được tầm quan trọng của môn Lịch sử, các em còn coi nhẹ môn học này. Đặc biệt đây cũng là tiền đề vững chắc để các em học lên các cấp học trên. Vì thế trong quá trình công tác và tình hình thực tế, tôi nhận thấy ngay từ cấp tiểu học chúng ta phải gây hứng thú học môn Lịch sử mà đi đến chủ động, sáng tạo yêu thích học môn học này. Lịch sử có vai trò quan trọng như vậy, nhưng thực tế hiện nay một số học sinh không có hứng thú khi học môn học này, dẫn đến chất lượng giờ lịch sử còn hạn chế. Với mong muốn góp phần nhỏ bé của mình vào việc phát triển nhân cách cho các em học sinh, đồng thời nâng cao năng lực sư phạm của bản thân, tôi mạnh dạn chọn môn Lịch sử để nghiên cứu. Đó cũng chính là lí do tôi chọn đề tài “Một số biện pháp dạy môn Lịch sử lớp 5 theo hướng phát triển năng lực giúp học sinh yêu thích môn học Lịch sử”. Nhằm làm cho việc học tập của học sinh trở nên lý thú, gắn bó với thực tiễn. Để phát huy tính tích cực chủ động, sáng tạo, thay đổi thói quen học tập thụ động, ghi nhớ máy móc của học sinh. Mục tiêu và nhiệm vụ của đề tài. Mục tiêu –Nghiên cứu, áp dụng tìm ra một số biện pháp nhằm gây hứng thú cũng như phát huy tính tích cực của học sinh đồng thời nâng cao chất lượng trong dạy học môn Lịch sử ở bậc Tiểu học. -Lịch sử lớp 5 được dạy ở trường Tiểu học nhằm cung cấp cho học sinh một số kiến thức cơ bản, thiết thực về Các sự kiện, hiện tượng, nhân vật lịch sử tiêu biểu ở các giai đoạn phát triển của lịch sử Việt Nam từ năm 1858 tới nay. Bước đầu hình thành và rèn luyện cho học sinh các kĩ năng Quan sát sự vật, hiện tượng, thu thập, tìm kiếm tư liệu lịch sử từ các nguồn khác nhau. Nêu thắc mắc, đặt câu hỏi trong quá trình học tập và chọn thông tin để giải đáp. Phân tích, so sánh, đánh giá các sự vật, sự kiện, hiện tượng lịch sử. Vận dụng các kiến thức đã học vào thực tiễn đời sống. Góp phần bồi dưỡng và phát triển ở học sinh những thái độ và thói quen Ham học hỏi, ham hiểu biết thế giới xung quanh. Yêu thiên nhiên, con người, đất nước. Có ý thức hành động và bảo vệ thiên nhiên và các di sản văn hoá. Nhiệm vụ -Xây dựng cơ sở lí luận cho đề tài. -Điều tra và khảo sát tình hình và chất lượng học tập của học sinh. -Đề ra biện pháp có hiệu quả giúp học sinh học tốt môn Lịch sử. Đối tượng nghiên cứu. -Đề tài nghiên cứu trong phạm vi học sinh khối lớp 5 Trường Tiểu học …………. Năm học 2015-2016. -Nghiên cứu các biện pháp giúp học sinh học tốt môn Lịch sử ở Tiểu học. Giới hạn phạm vi nghiên cứu. –Đề tài xoay quanh việc nghiên cứu giảng dạy và học tập với việc tìm tòi và áp dụng thực nghiệm đưa ra một số biện pháp từ kinh nghiệm giảng dạy qua nhiều năm công tác để giúp học sinh Tiểu học nói chung cũng như học sinh Trường Tiểu học ………… nói riêng học tốt môn Lịch sử. Phương pháp nghiên cứu. -Phương pháp trò chuyện với giáo viên và học sinh -Phương pháp thu thập và xử lí số liệu -Phương pháp thực nghiệm -Phương pháp điều tra, khảo sát. PHẦN NỘI DUNG Cơ sở lí luận. -Học sinh Tiểu học hồn nhiên, ngây thơ, trong sáng, hiếu động thích tò mò, khám phá, làm việc độc lập theo hướng tích cực của mình. Nhưng khả năng nhớ lâu, xâu chuỗi, hệ thống kiến thức của các em còn mang tính hình thức. Theo thống kê hàng năm của bộ giáo dục và đào tạo thì chất lượng bài thi môn Lịch sử ở các cấp còn thấp. Các em thường nhầm lẫn kiến thức Lịch sử với những nội dung cơ bản nhất. Vậy câu hỏi đặt ra nguyên nhân là do đâu ? Có lẽ vấn đề này chúng ta cũng không nên đổ lỗi cho một cấp học nào nhưng thực tế điều đáng nói là những kiến thức cơ bản các em cũng không nắm được. Môn Lịch sử vốn có vị trí, ý nghĩa quan trọng đối với việc giáo dục thế hệ trẻ. Từ những hiểu biết về quá khứ, học sinh hiểu rõ về truyền thống dân tộc, tự hào với những truyền thống, với những thành tựu dựng nước và giữ nước của tổ tiên, xác định nhiệm vụ trong hiện tại, có thái độ đúng với sự phát triển của tương lai. Song làm thế nào để các em làm được điều đó là vấn đề cốt lõi mà bản thân mỗi giáo viên cần quan tâm. -Xuất phát từ mục tiêu giáo dục đã được Đảng và nhà nước xác định, hoàn chỉnh, bổ sung qua các thời kì, chúng ta cần chú trọng đến quan điểm là đào tạo thế hệ trẻ thành người lao động làm chủ nước nhà. Là người có trình độ cơ bản, đáp ứng những yêu cầu phát triển kinh tế, xã hội, những người thông minh, sáng tạo, có phẩm chất đạo đức, tư tưởng tốt … Con người phải được rèn luyện qua quá trình đào tạo và tự đào tạo. Hiện nay, trong quá trình dạy học trên lớp, hoạt động trí tuệ chủ yếu của học sinh là ghi nhớ và tái hiện. Ở nhà, học sinh tự học dưới dạng học bài và làm bài…nhưng về căn bản đã được hướng dẫn ở lớp, nên hoạt động trí tuệ của học sinh vẫn nặng về rèn luyện trí nhớ và khả năng tái hiện. Như vậy, rèn luyện năng lực tư duy, khả năng tưởng tượng, sáng tạo phát triển trí tuệ, trí thông minh của học sinh nói chung, được xem là nhiệm vụ chủ yếu, nhiệm vụ quan trọng nhất của quá trình dạy học hiện đại. Vì vậy, then chốt của việc đổi mới phương pháp dạy học là điều chỉnh mối quan hệ giữa tái hiện và sáng tạo, đến việc tăng cường các phương pháp sáng tạo nhằm đổi mới tính chất hoạt động nhận thức của học sinh trong quá trình dạy học. Đây cũng là vấn đề nhức nhối cho những người làm công tác giáo dục nói chung và những giáo viên trực tiếp giảng dạy nói riêng. Thực trạng. -Chương trình lịch sử lớp 5 tập trung cung cấp cho các em về một số sự kiện, hiện tượng lịch sử và một số nhân vật lịch sử theo từng mốc giai đoạn thời gian 1858- 1945 Hơn 80 năm chống thực dân pháp xâm lược; 1945- 1954 Bảo vệ chính quyền non trẻ, trường kì kháng chiến chống thực dân pháp; 1954- 1975 Xây dựng chủ nghĩa xã hội miền Bắc, đấu tranh thống nhất đất nước; 1975- nay Xây dựng chủ nghĩa xã hội trong cả nước. -Tuổi trẻ bây giờ được sinh ra và lớn lên trong thời bình, dường như các em chưa quan tâm nhiều đến lịch sử đấu tranh dựng nước và giữ nước của cha ông ta. Các em chưa biết quan tâm nhiều đến việc tìm tòi, nghiên cứu nguồn sử liệu về lịch sử. Ở trường tiểu học các em chỉ dành nhiều thời gian, tâm sức cho môn Toán và môn Tiếng Việt. Vậy làm thế nào để nâng cao chất lượng của môn Lịch sử ? Đó là nỗi lo âu, trăn trở của mỗi chúng ta khi giảng dạy môn học này. -Học sử không phải để nhồi nhét vào trí nhớ một cách vô cảm những sự kiện, con số, ngày tháng, mà học sử để sống và rung động với sự kiện lịch sử. Học sử để rút ra những bài học về nhân văn, về lòng yêu nước, theo phương châm học để hiểu và hành như câu nói của Bác “ Dân ta phải biết sử ta, cho tường gốc tích nước nhà Việt Nam. -Thực tế hiện nay một số giáo viên vẫn còn coi nhẹ, chưa dành những quan tâm xứng đáng cho tiết dạy lịch sử, một số học sinh không có hứng thú khi học môn này dẫn đến chất lượng giờ học lịch sử còn hạn chế. lợi – khó khăn. Thuận lợi Trường Tiểu học ………… đóng trên địa bàn trung tâm xã …………, đường sá đi lại tương đối thuận tiện, 100% học sinh là con em tại địa phương, là một xã tương đối lớn. Số lượng trẻ em tương đối đông là nguồn nhân lực dồi dào cho lực lượng lao động trong tương lai nhưng đồng thời cũng đặt ra những thử thách về giáo dục, chăm sóc và tạo điều kiện thuận lợi phát triển cho trẻ. Sự phát triển kinh tế, xã hội của cả nước nói chung, trên địa bàn xã nhà nói riêng trong những năm qua đã tạo tiền đề quan trọng thúc đẩy, nâng cao hiệu quả công tác bảo vệ, chăm sóc và giáo dục trẻ em, thu hút được sự tham gia tích cực của hầu hết cơ quan Đảng, chính quyền, các tổ chức đoàn thể xã hội. Các chủ trương, đường lối về bảo vệ, chăm sóc và giáo dục trẻ em của Đảng và nhà nước được cụ thể hóa. Điều kiện sức khỏe và thể chất trẻ em ngày càng được cải thiện và nâng cao. Số học sinh có hoàn cảnh đặc biệt khó khăn từng bước được quan tâm. Bên cạnh đó nhà trường cũng đã chú trọng đầu tư trang thiết bị phục vụ cho công tác dạy học như Tranh ảnh, máy chiếu, máy vi tính …Đội ngũ giáo viên nhiệt tình, tâm huyết với nghề nghiệp. -Được sự quan tâm tạo điều kiện giúp đỡ của Ban Giám Hiệu nhà trường, của các đồng chí, đồng nghiệp và đặc biệt là sự nổ lực của bản thân trong quá trình nghiên cứu. Khó khăn –Học sinh trường Tiểu học ………… chủ yếu là con em dân tộc thiểu số, tầm nhận thức còn hạn chế, gia đình học sinh chủ yếu làm nghề nông, đời sống nơi đây còn gặp nhiều khó khăn, số học sinh thuộc diện hộ nghèo chiếm khá đông, sự quan tâm của phụ huynh còn sơ sài, chưa thiết thực. Thiếu sân chơi bổ ích cho trẻ, trình độ dân trí còn thấp điều đó ảnh hưởng không nhỏ đến việc học tập của học sinh. –Đồ dùng dạy học tuy được cải thiện song vẫn còn thiếu như băng hình đặc biệt là tư liệu Lịch sử còn hạn chế. Môi trường học Lịch sử còn nghèo nàn làm cản trở cho việc lôi cuốn học sinh trong việc yêu thích môn Lịch sử. Các em chưa biết quan tâm nhiều đến việc tìm tòi, nghiên cứu nguồn sử liệu về lịch sử. Trong học tập các em chủ yếu dành nhiều thời gian, tâm sức cho môn Toán và môn Tiếng Việt. -Từ những nguyên nhân trên đã ảnh hưởng không nhỏ đến chất lượng giờ dạy, không gây hứng thú cho học sinh và đặc biệt là tư duy trong học tập của các em bị hạn chế. Thành công – hạn chế +Thành công -Qua việc đổi mới phương pháp dạy học phù hợp với từng đối tượng, nội dung bài học. Học sinh hiểu bài nhanh hơn, nắm kiến thức lâu hơn, các em đã tích cực vân dụng được các kiến thức vào bài học, thực hành. Các em hứng thú và thích học môn Lịch sử hơn trong học tập. –Các biện pháp, giải pháp mà tôi áp dụng cho đề tài đã qua thực nghiệm và khảo sát nên mang lại hiệu quả của giáo dục khá cao. Và được sự đồng tình, ủng hộ của cán bộ, giáo viên nhà trường về những đề xuất của đề tài. +Hạn chế -Xuất phát từ quy luật nhận thức của con người phải đi từ dễ đến khó, từ đơn giản đến phức tạp, từ chưa hoàn chỉnh đến hoàn chỉnh… -Song bên cạnh đó do học sinh là con em nông thôn nên trong quá trình thực hiện ban đầu có phần hạn chế vì đồ dùng dạy học chưa phong phú. Đa số các em chưa yêu thích môn học này. -Từ những vấn đề nêu trên tôi thấy về trình độ nhận thức của học sinh hiện nay chưa cao, các em tuy nhạy bén với cái mới nhưng các em chóng quên, nếu không thường xuyên được củng cố, luyện tập thì hiệu quả đạt không cao trong học tập. Thời gian không chỉ dành riêng cho môn Lịch sử, trong quá trình nghe giảng học sinh chưa biết chọn lọc, kết hợp với ghi chép chi tiết những điều cần nhớ, tốc độ viết còn chậm, khả năng tiếp thu và thâu tóm vấn đề còn hạn chế. Mặt mạnh – mặt yếu +Mặt mạnh -Đa số giáo viên có tâm huyết với nghề, có hiểu biết sâu sắc về bộ môn và có tay nghề cao, vẫn có nhiều giờ dạy giỏi, phản ánh được tinh thần của xu thế mới. Mặc dù phần lớn giáo viên phải sống và giảng dạy trong điều kiện còn khó khăn, nhưng nét nổi bật là đều có tinh thần trách nhiệm cao, bám lớp, bám trường. -Học sinh Tiểu học hiện nay có trí thông minh khá nhạy bén, sắc sảo, óc tưởng tượng khá phong phú đó là tiền đề tốt cho việc phát triển nâng cao tư duy trong học tập. -Bản thân tôi là giáo viên có thời gian công tác giảng dạy đã lâu năm, nên kinh nghiệm giảng dạy khá phong phú, vì thế việc tìm ra biện pháp để phục vụ cho đề tài là tương đối thuận lợi. Các biện pháp mà tôi đưa ra đã được thực nghiệm tại trường Tiểu học ………… mang lại hiệu quả khá cao. Không những thế lại nhiệt tình trong công tác, có chí cầu tiến thích khám phá, tìm hiểu. Bên cạnh đó học sinh rất thích cái mới, cái lạ và thích khám phá tìm hiểu thế giới xung quanh. Chuyên môn tổ chức nhiều chuyên đề, phương pháp đặt ra nhằm nâng cao chất lượng dạy học. Ngoài ra nhà trường cũng như Liên đội thường tổ chức một số cuộc thi như Nhà sử học nhỏ tuổi, em yêu Tổ quốc Việt Nam… Đã mang lại hiệu quả cao trong công tác dạy học Lịch sử, không những thế qua những hình ảnh trực quan như tên đường, tên trường, tên chi đội .. cũng gắn liền với nhân vật lịch sử, vì thế thông qua đó các em đã hiểu được phần nào về lịch sử nước nhà, những vấn đề đó cũng góp phần không nhỏ đến sự thành công của đề tài. +Mặt yếu -Trong quá trình dạy học, một số giáo viên chưa đổi mới phương pháp dạy học, dạy học còn theo kiểu truyền thống, giáo viên thiên về giảng giải, truyền thụ, thậm chí nhồi nhét kiến thức, học sinh lắng nghe một cách thụ động, ghi nhớ máy móc. Chính vì thế nội dung chương trình, phương pháp giảng dạy, hình thức chuyển tải, truyền đạt…làm thế nào cho phù hợp với từng đối tượng học sinh, với tâm sinh lí lứa tuổi là điều quan trọng. Nhưng nhìn chung chưa mang lại hiệu quả cao do nhiều yếu tố khách quan và chủ quan. Cụ thể học sinh cũng như phụ huynh chưa quan tâm đến nhiều môn học này. -Để gây hứng thú học tập và giúp học sinh có khả năng nhớ lâu, hệ thống kiến thức tốt giáo viên cần đầu tư và đưa công nghệ thông tin bài giảng điện tử vào trong dạy học thì hiệu quả đạt cao hơn. Các nguyên nhân, các yếu tố tác động đến đề tài -Học Lịch sử là quá trình nhận thức những điều đã diễn ra trong quá khứ của xã hội để hiểu về hiện tại và chuẩn bị cho tương lai. Khi nghiên cứu các hiện tượng tự nhiên người ta có thể trực tiếp quan sát chúng trong thiên nhiên hoặc trong phòng thí nghiệm nhưng đối với học sinh vùng nông thôn như trường tôi thì điều đó quá xa vời. Các em chủ yếu chỉ tái tạo Lịch sử qua lời kể của thầy cô giáo, qua tưởng tượng điều đó ảnh hưởng đến sự lĩnh hội kiến thức lịch sử bị hạn chế. -Phương pháp dạy học ít đổi mới của giáo viên cũng ảnh hưởng không nhỏ đến quá trình tiếp thu bài của học sinh. Học sinh chưa coi trọng môn lịch sử như Toán hay Tiếng Việt nên đầu tư cho môn học này còn ít. -Thực tế chất lượng học sinh trong lớp chưa thực sự đồng đều một số em còn xem nhẹ môn học này. Hơn nữa thời gian học tập các môn học với lượng kiến thức nhiều nên việc học Lịch sử đối với các em chưa thực sự chú trọng. Phân tích, đánh giá các vấn đề về thực trạng mà đề tài đã đặt ra. -Thực trạng cho thấy, đầu năm học khi tôi nhận lớp, chỉ có khoảng hơn 60% học sinh hứng thú, thích học môn Lịch sử. -Trước khi thực hiện đề tài này, trong lớp có 18/29 HS yêu thích, hứng thú học môn Lịch sử. chiếm 62%. 5/29 HS học vì yêu cầu của thầy cô,chiếm 17%. 6/29 HS chưa hứng thú học môn lịch sử, chiếm 21%. -Như vậy qua tìm hiểu thực trạng chúng ta nhận thấy rằng có nhiều nguyên nhân dẫn đến tình trạng học sinh ngại học Lịch sử nhưng theo tôi phải thẳng thắn nhìn nhận rằng -Phương pháp dạy học của giáo viên chưa thật sự đổi mới. Trong hội giảng của trường hầu như giáo viên không tham gia hoặc đăng kí dạy môn Lịch sử. -Trang thiết bị cũng như băng hình, tài liệu về sử học còn hạn chế. Giáo viên ít đầu tư làm đồ dùng cho môn học mà học sinh chủ yếu được học chay. -Quan niệm về vị trí môn học của phụ huynh và học sinh còn sai lệch. -Nhà trường chưa tổ chức nhiều các hội thi hay hoạt động ngoài giờ lên lớp có kiến thức sử học. -Kiến thức về sử học của một số giáo viên còn hạn chế nên khi lên lớp không mở rộng cho học sinh thêm kiến thức có sẵn trong sách giáo khoa. -Vậy để giúp học sinh học tốt môn Lịch sử đòi hỏi trước hết giáo viên cần có kiến thức Lịch sử chuyên sâu. Thiết kế bài giảng sinh động và mới mẽ trong từng tiết dạy, sử dụng giáo án điện tử vào tiết dạy, luôn sưu tầm, cập nhật tài liệu, kiến thức Lịch sử thường xuyên qua thông tin đại chúng, trong tiết dạy phải biết phối hợp các phương pháp dạy học có hiệu quả. Ngoài ra, tôi luôn yêu cầu học sinh phối hợp giữa lí thuyết và thực hành. Trong dạy học môn học này, tôi sử dụng kết hợp linh hoạt các phương pháp và các hình thức dạy học, trong đó chú trọng phát huy năng lực chủ động sáng tạo nơi các em, ví dụ Ở bài 6 lịch sử 5 “Quyết chí ra đi tìm đường cứu nước”, nội dung của bài học này khá gần gủi với các em, tôi giao nhiệm vụ cho các em sưu tầm tư liệu về tiểu sử của Bác, trao đổi trình bày trong nhóm và trước lớp. Đây chính là cách giúp học sinh chủ động tiếp cận kiến thức thông qua sự dẫn dắt của giáo viên. Khi tiến hành hoạt động dạy học, tôi còn dựa trên trình độ thực tế của lớp mà lựa chọn phương pháp, hình thức tổ chức dạy học phù hợp nhất. Trong mỗi bài dạy tôi luôn xây dựng một hệ thống câu hỏi đi từ dễ đến khó. Qua đó, giúp tôi lựa chọn phương pháp đàm thoại, vấn đáp hay thảo luận nhóm, trao đổi…theo hình thức cá nhân, để giải quyết vấn đề được đặt ra. Giải pháp, biện pháp BẤM VÀO ĐÂY ĐỂ TẢI BẢN WORD Xem thêm sáng kiến kinh nghiệm khác 1. Liên kết sự kiện lịch sử với bản thân Lịch sử là môn học có nội dung khá nhiều các số liệu nên dễ khiến nhiều học sinh cảm thấy nản mỗi khi học. Vì vậy, để nhớ các mốc sự kiện, số liệu, các bạn nên hướng dẫn học sinh gắn những con số này với những điều quen thuộc trong cuộc sống như ngày của mình như sinh nhật của người thân, bạn bè, ngày đầu tiên nhập hoc.... Bên cạnh đó, giáo viên cũng khuyên học sinh nên chép lại các sự kiện, mốc thời gian sự kiện vào giấy ghi chú sau đó dán nó lên góc học tập, tường nhà, cửa ra vào, góc nấu ăn miễn là những vị trí dễ thấy, thấy thường xuyên nhất. Việc này giúp cho học sinh dễ nhớ hơn đọc trong sách giáo khoa. 2. Xâu chuỗi các sự kiện Với nhiều sự kiện bạn nên tìm cách xâu chuỗi với nhau, như vậy chỉ cần nhớ 1, học sinh sẽ nhớ sự kiện kia. Chỉ cần các bạn tìm ra cách thức liên kết 2 sự kiện ấy. Ví như ngày 27 tháng 1 1973 là ngày kí Hiệp định Pari, đảo lại, ngày 21 tháng 7 1954 là ngày kí Hiệp định Giơnevơ; Ngày 2 tháng 9 1945 Bác Hồ đọc bản Tuyên ngôn độc lập khai sinh ra nước Việt Nam Dân chủ cộng hoà, đảo lại ngày 9 tháng 2 1930 là ngày nổ ra cuộc khởi nghĩa Yên Bái… 3. Tự xây dưng sơ đồ tư duy Sơ đồ tư duy môn Lịch Sử Đây được cho là phương pháp hiệu quả nhất, tiết kiệm thời gian và nhớ lâu nhất. Giáo viên nên hướng dẫn học sinh vẽ ra cho mình nhứng sơ đồ tư duy Lịch sử riêng. Để vẽ được sơ đồ tư duy hình cây cũng không khó khăn và thách thức học sinh. Gốc cây chính là ý chính của bài học, các ý nhỏ triển khi như những cành cây lớn, ý nhỏ nữa sẽ vẽ đâm ra như những nhánh cây. Theo lối tư duy tượng hình này giúp nhớ dễ dàng hơn, hình ảnh sẽ luôn được mường tượng ra trong đầu. 4. Xem phim tài liệu Phìm tài liệu về chiến tranh Việt Nam Khuyến khích các em xem phim tài liệu cũng là một cách dễ nắm bắt chính xác nhất các sự kiện lịch sử. Những chi tiết, hình ảnh sống động trên phim sẽ giúp người xem tiếp thu kiến thức lịch sử một cách nhẹ nhàng hơn, với ấn tượng mạnh hơn mà không hề cảm thấy khô khan như tiếp thu trên sách vở. 5. Tham gia các kỳ thi trắc nghiệm để hệ thống kiến thức Hãy thường xuyên kiểm tra kiến thức lịch sử của học sinh đến đâu bằng cách cho các em luyện thi thật nhiều với hệ thống trắc nghiệm trực tuyến trên website. Không chỉ bổ sung những kiến thức lịch sử còn hổng, việc luyện thi trên hệ thống trực tuyến còn giúp học sinh làm quen với nhiều dạng câu hỏi, tích lũy kinh nghiệm làm bài, biết cách phân bố thời gian hợp lý trong quá trình thi. Tuy nhiên phương pháp này có phần hạn chế là các đề thi trên website không được kiểm chứng và quy định nên hệ thống kiến thức có thể quá rộng, không phù hợp với trình độ học sinh, dễ khiến học sinh lạc hướng. Để khắc phục tình trạng này, giáo viên nên tự thiết lập hệ thống trắc nghiệm trực tuyến riêng cho mình. Đảm bảo lượng kiến thức vừa đủ và ngang tầm học sinh của mình. Hãy điền đầy đủ thông tin ở form tại đây, mọi vấn đề liên quan đến thiết kế và kỹ thuật sẽ được chúng tôi giải quyết. Giáo viên chỉ cần chuẩn bị nội dung là có ngay hệ thống trắc nghiệm của riêng mình hoàn toàn miễn phí cho học sinh luyện tập thả ga.

hướng dẫn học sinh tự học môn lịch sử